Trang:Viet Nam Su Luoc 2.pdf/184

(Đổi hướng từ Trang:Viet Nam Su Luoc.djvu/184)
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.

Đúc tiền. Năm Gia-long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc-thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao-thông buôn-bán trong nước.

Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ « Gia-long thông-bảo », một mặt in chữ « thất phân », mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.

Giá vàng ở Bắc-thành thì định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.

Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia-định thành và ở các trấn.

Thước đo. Vua Thế-tổ chế-tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ « Gia-long cửu niên thu bát nguyệt », một mặt khắc 10 chữ « ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo ». Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế-tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ « Gia-long cửu niên thu bát nguyệt », một mặt khắc 12 chữ « ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo ».

Phép cân. Năm Gia-long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên-bình, cấp cho các doanh các trấn, để cân đồng, sắt, chì, thiếc và các sản-vật. Còn vàng và bạc thì dùng cân trung-bình.

5. CÔNG-VỤ. Vua Thế-tổ lại sửa-sang những đường-sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê-điều, để cho việc làm ăn của dân-gian được tiện-lợi.

Đường quan-lộ. Đường-sá trong nước là sự khẩn-yếu cho việc chính-trị, vậy nên vua Thế-tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa-sang đường quan-lộ: bắt dân sở-tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.

Lại từ cửa Nam-quan (thuộc Lạng-sơn) vào đến Bình-thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở