Trang:Viet Nam Su Luoc 2.pdf/183

(Đổi hướng từ Trang:Viet Nam Su Luoc.djvu/183)
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

mỗi năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi tự tháng 10 đến tháng 11 thì hết.

Đinh bạ. Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức-sắc cho đến quân-dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.

Điền bạ. Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa-lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, còn một bản giao trả dân xã lưu thủ.

Cấm bán ruộng công-điền. Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công-điền đổi ra tư-điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia-long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xã không được mua bán công-điền công-thổ, chỉ trừ lúc nào xã-thôn có công-dụng điều gì, thì mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quá hạn ấy thì phải tội.

Thuế các sản vật. Năm Gia-long thứ hai (1803), định lệ các quế-hộ ở Nghệ-an, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh-hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn-bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.

Năm Gia-long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến-sào ở các đảo về hạt Quảng-nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh-lính.

Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản-vật.

Vua Thế-tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn-bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.