Trang:Viet Han van khao.pdf/64

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 52 —

Câu đề trong đền Quan-công

Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ xích-thố truy-phong, trì khu thời, vô vong xích-đế.

Thanh đăng quan thanh sử, trượng thanh-long yển-nguyệt, ẩn vi xứ, bất quý thanh-thiên.

Vế trên nghĩa là: bộ mặt đỏ giữ tấm lòng đỏ cưỡi ngựa xích-thố truy-phong, lúc ruổi rong, không quên về vua đỏ. Vế dưới nghĩa là: ngọn đèn xanh xem bộ sử xanh, cầm đao thanh-long-yển-nguyệt nơi kín đáo, chẳng thẹn với giời xanh. Câu này bao nhiêu chữ « xích » là đỏ đối với toàn chữ « thanh » là xanh, cho nên khéo.

Câu triết tự

Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa nhập vi vương.

Thổ tiệt bán hoành, thuận giả thượng nghịch giả hạ.

Vế trên nghĩa là chữ « ngọc » giấu một nét chấm, để ra làm chữ « chúa », cất vào làm chữ « vương », có ý khoe mình tung-hoành khi làm chúa khi làm vua vậy.

Vế dưới là chữ « thổ » bỏ đi nửa nét ngang, trông xuôi là chữ « thượng » trông ngược là chữ « hạ », có ý nói thuận thì là trên mà nghịch thì là dưới vậy. Hai câu ấy là của quận Hẻo ra mà ông Thượng-quận đối lại, vừa chọi từng nét chữ, vừa có ý nhị, cho nên là tài.

Tam mộc xâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử,

Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân.

Vế trên nghĩa là ba cây mọc súm ở sân, có người con gái đẹp ngồi dưới; triết tự thì 3 chữ « mộc » là chữ « sâm », chữ « nữ » chữ « tử » là chữ « hảo ».

Vế dưới nghĩa là rẫy núi lộ ra con đường, có quan sứ-giả đi qua; triết tự thì hai chữ « sơn » là chữ « xuất », chữ « lại » chữ « nhân » là chữ « sứ ». Đây là của quan trạng Phùng-khắc-Khoan đi sứ Tầu, đường qua rặng núi, thấy người con gái ngồi chơi dưới gốc cây mà đọc nên câu này, người con gái ứng khẩu đối lại. Vừa hợp cảnh trước mắt lại vừa chọi từng nét chữ.