một đấu rượu, ngâm xong trăm bài, người ta đã gọi là Thánh thơ. Thơ của cụ rất tự nhiên mà chí khí rất phiêu dật hào phóng. Xem như khi cụ say rượu đáp lại Hồ-châu Tư-mã có câu rằng:
Thanh liên cư sĩ Trích-tiên nhân,
Tửu tứ đào danh tam thập xuân.
Hồ châu Tư-mã hà tu vấn,
Kim lập Như-lai thị hậu nhân.
Dịch nôm:
Thanh liên cư sĩ Trích-tiên đây,
Ba chục năm giời tỉnh lại say.
Tư-mã Hồ châu bằng muốn hỏi,
Như-lai phật ấy tức thân này.
Lại xem như bài « Tương tiến-tửu » có mấy câu rằng:
Cổ lai thánh hiền dai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Chung cổ soạn ngọc bất túc quí,
Đãn nguyện tràng túy bất nguyện tinh.
Nghĩa là xưa nay thánh hiền đều tẻ ngắt cả, chỉ có người uống rượu là để tiếng về sau. Vậy nên những chuông trống, những soạn ngọc cũng chẳng quí gì, ta chỉ muốn liên miên say hoài mà không muốn tỉnh. Xem các lời đó đủ nghiệm được cái chí phóng khoáng của cụ. Thơ của cụ tả cảnh lại rất tinh thần. Xem như câu:
Thanh thủy xuất phù-dung,
Thiên nhiên khứ điêu sức.
Nghĩa là đầm nước trong nẩy mọc ra cây phù-dung (hoa sen), tự nhiên không phải trang sức gì. Câu đó tả cảnh cây sen rất thần-tình, như vẽ ra cái cảnh đẹp của cây sen. Thơ cụ lại thường tự nhiên mà nẩy ra tứ thần kỳ, như câu:
Dạ tĩnh bất kham đề tuyệt cú,
Khủng kinh tinh đẩu lạc giang hàn.