Trang:Truyen ky man luc NVT.pdf/59

Trang này cần phải được hiệu đính.
63
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

đến chị ấy, nên chị ấy xấu-hổ không dám đến nữa.

Nhân đưa bài thơ của Đào gửi cho sinh:

晴 霞 骨 格 雪 精 神
Tình hà cốt cách tuyết tinh-thần,
露 蕊 煙 條 兩 樣 新
Lộ-nhị yên điều lưỡng dạng tân.
可 恨 東 皇 私 著 意
Khả hận Đông-hoàng tư trước ý,
一 枝 憔 悴 一 枝 春
Nhất chi tiều-tụy nhất chi xuân.

Dịch:

Băng sương cốt-cách, tuyết tinh-thần,
Nhị mởn ngành mềm đã xứng cân.
Khá trách Đông-hoàng thiên-vị lắm,
Một cành bỏ héo một cành xuân,

Sinh đọc xong buồn-rầu lúc lâu, nhân làm bài thơ họa theo vần trên để đáp lại:

相 思 一 段 一 勞 神
Tương-tư nhất đoạn nhất lao thần,
底 事 纔 成 別 恨 新
Để sự tài thành biệt hận tân.
憑 仗 風 姨 煩 寄 語
Bằng trượng phong di phiền ký ngữ,
爲 誰 憔 悴 爲 誰 春
Vị thùy tiều-tụy? vị thùy xuân?

Dịch:

Tương-tư nặng gánh khổ tâm-thần,
Ân-ái chưa hề lệch cán cân.
Dì gió, nhờ đem tin nhắn-nhủ:
Hoa nào bỏ héo? lá nào xuân?

Đào được thơ, từ đấy mới đi lại như trước. Gặp đêm nguyên-tiêu (rầm tháng giêng), người ở