hạ. Mỗi khi có tiệc mời sinh vào dự, Trụ-quốc thường lấy lời dịu-dàng khoản tiếp; nhưng về việc Túy-Tiêu, tuyệt nhiên không nhắc-nhỏm đến. Sinh mon-men hỏi tới, Trụ-quốc gạt đi mà rằng:
— Mối tình yêu-thương, ai mà chẳng thế. Tưởng nàng nhớ thầy, cũng chẳng khác gì thầy nhớ nàng. Nhưng vì ít lâu nay nàng hơi khó ở, nên chưa thể ra cùng thầy tương kiến được. Thầy hãy cứ thong-thả, đi đâu mà vội.
Túy-Tiêu nghe sinh đã đến, cũng muốn được gặp, nhưng trong nhà nàng hầu vợ lẽ nhiều lắm, vả coi giữ nghiêm-ngặt, nên không có dịp nào tìm đến sinh được. Một hôm nhân buổi chầu sớm chưa tan, thừa lúc những nàng hầu vợ lẽ đi ngủ, nàng lén đến thư-phòng của sinh. Phải lúc sinh chạy đi đâu vắng, nàng thấy trên vách có đề hai bài thơ sau này:
I
小 階 破 履 落 苔 衣
Tiểu giai phá lý lạc đài y
客 舍 凄 涼 獨 掩 扉
Khách xá thê lương độc yểm phi
青 鳥 不 來 春 信 晩
Thanh điểu bất lai xuân tín vãn
莎 庭 漠 漠 又 斜 暉
Sa đình mạc mạc hựu tà huy.
Dịch:
Trước thềm giày rách giẫm trên rêu
Cửa khép phòng văn lạnh hắt-hiu
Bằn-bặt chim xanh tin chẳng lại,
Sân không vắng-vẻ, bóng trời chiều.
II
月 殿 長 寒 鎖 翠 眉
Nguyệt điện trường hàn tỏa thúy my