Trang:Truyen ky man luc NVT.pdf/112

Trang này cần phải được hiệu đính.
116
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống-sơn, nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường sai một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên-minh hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý-hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kỳ như núi Chích-trơ, động Lục-vân, sông Lãi, cửa Nga, không đâu không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ dậy sớm, trông ra bể Thần-phù ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc, đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh-ngạc bảo lái thuyền rằng:

— Ta đã từng lênh-đênh trong áng giang-hồ, các thắng cảnh miền đông-nam, không còn chỗ nào sót mà không đi đến. Nay không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, vì trước kia vốn không từng có; ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đấy chăng?

Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, nếu khống có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được. Nhân đề một bài thơ luật rằng:

千 章 碧 樹 掛 朝 暾
Thiên chương bích thụ quải triêu đôn
花 草 迎 人 入 洞 門
Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn
遶 澗 已 無 僧 採 藥
Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược
沿 流 剩 有 客 尋 源
Diên lưu thặng hữu khách tầm nguyên
旅 遊 滋 味 琴 三 弄
Lữ du tư vị cầm tam lộng
釣 艇 生 涯 酒 一 樽
Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn