Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/30

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 28 —
  1. Dĩ noản kích thạch.
    Lấy trấng mà chọi đá, hiểu nghĩa là một đàng yếu một đàng mạnh, chẳng có thế chi mà chống chỏi.
  2. Dĩ nông vi bổn.
    Sanh ý có bốn phép, là sĩ, nông, công, cổ, cũng gọi là tứ dân, có một sự làm rộng là cần nhứt, nên phải lấy nó làm căn bổn.
  3. Di tửu vô lượng bất cập loạn.
    Chỉn rượu không lường chẳng đến loạn. Nghĩa là uống rượu ít nhiều tùy theo độ lượng người, chớ để cho loạn tâm tánh.
  4. Diện phục tâm bất phục.
    Mặt phục mà lòng không phục : phục ấy là kính phục, chịu phục ; người ta nói dạ trước mặt thì là diện phục.
  5. Diệt địa giai nhiên.
    Đổi đất đều như nhau, hiểu nghĩa là người tài đức đổi đi đâu cũng tài đức.
  6. Dinh, hư, tiêu, trưởng.
    Nghĩa là đầy, lưng, mòn, lớn, thường nói về mặt trăng ; vận con người có khi đầy, khi vơi, khi mòn, khi lớn cũng như mặt trăng.
  7. Dinh tất dật.
    Nghĩa là đầy ắt có tràn, hễ là đầy lắm thì phải có tràn trề hư hao ; cho nên lý thạnh mãn nhi hậu tri chỉ, nghĩa là tới mực đầy rồi thì phải thôi.
  8. Dò sông dò biển còn dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người.
    Cũng là câu hát, nghĩa là lòng người nham hiểm không lẽ xét biết.
  9. Dõng bất quá thiên, cường bất quá lý.
    Nghĩa là mạng chẳng qua trời, cứng chẳng qua lý ; chẳng ai chống nổi việc trời, đến lẽ chánh chẳng ai thắng đặng, có câu rằng : lẽ thật phải mệt mà chẳng phải thua. Lại lý là lý thế phải chịu.
  10. Dòng nào sanh giống ấy.
    Nghĩa là rặc nòi, cũng như hổ phụ sanh hổ tử.
  11. Dốt đặc như cán mai xay.
    Nghĩa là dốt quá.
  12. Dũ thiện nhơn giao như nhập chi lan chi thất, dữ ác nhơn giao như nhập bào ngư chi tứ.
    Nghĩa là kết bạn người lành, thì như là vào trong nhà có cỏ chi cỏ lan thơm tho, kết bạn cùng đứa xấu thì như vào hàng cá mắm hôi hám. Một nghĩa với câu gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
  13. Dũ xu dũ hạ.
    Nghĩa là càng chạy càng xuống, hiểu nghĩa là càng ngày càng sụt.
  14. Du thủ du thực.
    Nghĩa là ăn chơi luông tuồng.