Trang:Tân Dân Tử, Gia Long Tẩu Quốc, Quyển 4.pdf/19

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 249 —

— Tâu Chúa-thượng, sáu chiếc chiến hạm ấy, mổi chiếc độ chừng hai trăm binh, còn chiến thuyền nhỏ thì mổi chiếc độ chừng một trăm binh, cọng cả thảy chừng hai vạn binh bộ và binh thủy.

Đức Nguyển-vương nghe rồi liền hạ lịnh truyền cho quan thủy-sư Đô-đốc là Huỳnh-thiêm-Lộc phải hội chiến thuyền lại sông Nhà-bè và sắp đặt trận đồ mà cự chiến.

Huỳnh-thiêm-Lộc vâng lịnh tức thì lui về, rồi truyền các đạo chiến thuyền cả thảy là một trăm hai chục chiếc, kéo ra sông Tam-kỳ tại ngã ba Nhà-bè Sắp hàng hai bên mé sông, mổi bên sáu chục chiếc, trong đó có năm chiếc đại chiến hạm, một chiếc cũa Đức Nguyển-vương, một chiếc cũa Đô-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc, một chiếc của Mạng-Hòe[1] là người nước Pháp, lảnh làm Phó Đề-đốc, một chiếc thì Dương-công-Trừng lãnh làm trung Húy và một chiếc của Tôn-thất-Thiện lảnh làm Thủy-sư Đô-húy, còn năm chục chiếc phong-hỏa-thuyền, thì núp theo mấy ngọn sông nhõ, đều cụ bị rơm khô củi đuốt sẳng sàng, để phòng khi có dụng hỏa-công mà đốt thuyền quân giặc. Đâu đó bài binh liệt trận xong rồi, Nguyễn-vương bèn sai một đội tiểu-khoái-thuyền (là ghe nhỏ) ra tại Cần-giờ, thám dọ thuyền giặc hành động thế nào, đặng về báo tin cho lẹ.

Khi ba đạo chiến thuyền của Tây-sơn tới cửa Cần-giờ, bèn truyền lịnh cho các thuyền phãi đi mỗi hàng mười chiếc ngang nhau, rồi lần lần kéo tới, chừng


  1. Mạng Hòe theo tên tây là Manuel theo sử của Charles Maybon.