Phú-yên Tuần phủ 1, ngồi tại phủ Tuy-an; Thuận-khánh, Tuần phủ 1, ngồi tại Hàm-thuận phủ thuộc Bình-thuận; Biên-hòa Tuần phủ 1, ngồi tại phủ Phước-long; Định-tường Tuần phủ 1, ngồi tại phủ Kiến-an; Hà-tiên Tuần phủ 1, ngồi tại Phú-an-biên; Trị-bình Tuần phủ 1, ngồi tại phủ Triệu-phong, hoặc tại phủ Hà-thanh thuộc Quảng-trị; Ninh-bình Tuần phủ 1, ngồi tại Phủ-an-khánh; Hưng-an Tuần phủ 1, ngồi tại phủ Khoái-châu; Hưng-hóa Tuần phủ 1, ngồi tại phủ Gia-hưng; Lượng-bình Tuần-phủ 1, ngồi tại phủ Trường-khánh, thuộc tỉnh Lạng-sơn.
Các tỉnh nhỏ không đặt Bố chánh, chức Tuần phủ phải kiêm ấn Bố chánh.
Các Tổng đốc, lệ kiêm lảnh hàm Binh bộ Thượng thơ, hoặc kiêm hàm Đô sát viện hữu Đô ngự sữ.
Các Tuần phủ, lệ kiêm hàm Binh bộ Tham tri, hoặc kiêm hàm Đô sát viện hữu phó Đô ngự sữ. (Bình-thuận, Biên-hòa, Định-tường, Hà-tiên, Trị-bình, Hà-tịnh, Ninh-bình, Hưng-hóa, Lạng-sơn 9 tỉnh, các Tuần phủ đều kiêm hàm Đề đốc.)
Hiệu Gia-long năm đầu, nghị Quảng-bình, Quảng-trị, Quang-nam, Quảng-nghĩa, Bình-định; Bình-khương (nay là tỉnh Khánh-hòa); Bình-thuận; Phú-yên; Phan-yên (nay là Gia-định); Biên-hòa; Vỉnh-thanh (nay là Vỉnh-long); Định-tường; Thanh-hoa (nay là Thanh-hóa); Nghệ-an; Sơn-nam-thượng (nay là Hà-nội); Sơn-nam-hạ (nay là Nam-định); Kinh-bắc (nay là Bắc-ninh); Sơn-tây, Hải-dương, Thái-nguyên, Lạng-sơn, Tuyên-quang; An-quang (nay là Quảng-an); Cao-bằng, Hưng-hóa các dinh Trấn, đều đặt chức Lưu thú, Trấn thủ, đều một người.
Hiệu Minh-mạng năm thứ mười bốn, nghị cải Phan-yên làm tỉnh Gia-định.