Trích lục mấy câu Cung-Oán làm mẫu:
Chải vách quế gió vàng hiu hắt (v. t. 1),
Mảnh vũ y lạnh ngắt (v. t. 1) như đồng (v. b. 2)
Oán chi những khách tiêu phòng (v. b. 2),
Mà đem phận bạc nằm trong (v. b. 2) má đào (v. b. 3).
Duyên đã may cớ sao (v. b. 1) lại rủi (v. t. 2),
Nghĩ nguồn cơn dở dói (v. t. 2) sao đang (v. b. 3).
Vì đâu nên nỗi dở dang (v. b. 3),
Nghĩ mình mình lại nên thương (v. b. 3) nỗi mình (v. b. 4).
III. Biến-thể lục-bát. — Thể này tức cũng là thể lục-bát hơi thay đổi một chút, vì thuỷnh-thoảng chữ cuối câu sáu lại vần với chữ thứ tư (chứ không phải chữ thứ sáu) câu tám. Tức như thể truyện Quan-Âm, Phạm-Công, v. v.
Trích lục mấy câu Quan-Âm làm mẫu:
Này sự con vua thủy-thần,
Thái-tử đi tuần đội lốt lý ngư.
Đi nhầm mắc lưới vẩn-vơ,
Chẳng chậm một giờ đao thớt phải sa.
NGUYỄN-TRÃI 阮 廌 (1380-1442)
Ông người làng Nhị-khê, huyện Thượng-phúc, tỉnh Hà-đông, ở đời nhà Trần, đậu Thái-học-sinh. Sau nhân nhà Minh sang chiếm lấy nước ta, vua Lê Thái-tổ khởi nghĩa, ông bèn đi theo vua Lê; trong mười năm bình định, bày các mưu hoạch, giúp việc từ-cáo, thiệt là một người khai quốc công-thần đệ nhất, sau vua Thái-tổ cho ông làm chức hành-khiển (thủ-tướng). Ông mất năm 1442.
Ông không những là một ông tướng giỏi, lại là một ngày nhà đại văn-sĩ ở nước ta. Khi còn đương đánh dẹp, một tay ông thảo các từ-cáo ở trong quân, sau họp lại thành một tập gọi là Quân-trung từ-mệnh. Khi đã bình định rồi, ông làm bài Bình-Ngô đại-cáo để bá cáo việc dẹp xong giặc Minh cho thiên-hạ biết. Ông lại viết quyển An-nam vũ-cống là một quyển địa-dư-chí nước Nam, viết theo lối cổ văn như bài Vũ-Cống ở trong kinh Thư.
Về thơ văn chữ nôm thì còn truyền tụng lại bài thơ ông đọc cho Thị-Lộ và quyển Gia-huấn ca.
Ông lại viết nhiều bài thơ văn bằng chữ nho sau họp lại thành tập: Ức-trai toàn-tập (Ức-trai là tên hiệu của ông).