Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/68

Trang này cần phải được hiệu đính.
48
HÁT NÓI

Túi kinh-luân từ trước để nghìn sau,
Hơn nhau một tiếng công hầu.

Nguyễn-công-Trứ[1]

CHÚ THÍCH. — 1. 桑 蓬 弧 矢 男 兒 債: tang, bồng là cây dâu cây sậy; hồ, thỉ là cung, tên. Theo tục bên Tàu ngày xưa, hễ sinh con trai thì người ta lấy cái cung làm bằng gỗ dâu bắn sáu cái tên làm bằng cây sậy, bắn lên trời, xuống đất và ra bốn phương trời; thủ ý rằng sau này con theo việc cung tên lập nên công-danh. Câu này nghĩa bóng là: làm tài trai phải lập nên công-danh sự-nghiệp. — 2. Là vua với cha mẹ. — 3. Là ruộng vườn; thú điền viên là cảnh thú của người ẩn-dật ở nơi quê mùa. — 4. Là gươm với nỏ (, nỗ), việc kiếm cung là việc đánh giặc dẹp loạn.

CÂU HỎII. Ý tưởng. — 1. Đại ý bài này thế nào?

2. Công danh là gì? Cái quan-niệm của tác-giả về hai chữ công-danh thế nào? Sao tác-giả lại bảo công-danh là nợ nần?

3. Nghĩa quân thân là nghĩa gì? quan trọng thế nào?

4. Cái quan-niệm của tác-giả về chức-trách một ông quan thế nào?

II. Lời văn. — 1. Nghĩa chữ dắp chữ hẹn. — Xếp bút nghiên: ý nói gì? — Túi kinh-luân là gì? — Công hầu là gì? — Ý câu kết nói gì?

2. Về thể cách bài này có điều gì khác lạ không? Hai câu thơ chữ tác-giả thay làm hai câu gì?

60. — THOÁT VÒNG DANH LỢI

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc, tùng, phong, nguyệt, mới vui sao!
Đám phồn-hoa trót bước chân vào,
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết!
Quá giả vãng nhi bất thuyết 1,
Cái hình hài làm thiệt cái thân chi 2?
Cuộc đời thử ngẫm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén tửu,
Vui cùng phong nguyệt một câu thơ.
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang, sơn, phong, nguyệt.
Mặc xa-mã thị-thành không dám biết.


  1. Xem tiểu-truyện tác-giả ở trang 13.