Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/66

Trang này cần phải được hiệu đính.
46
HAT NÓI

Hẵng bền lòng chớ chút oán vưu,
Thời chí hĩ, ngư long biến hóa 5.
Thôi đã biết cùng thông 6 là mệnh cả,
Cũng đừng đem hình dịch 7 lại cầu chi.
Hơn nhau cũng một chữ thì!

Cao-bá-Quát

Ông người làng Phú-thụy, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, đậu cử-nhân năm Minh-Mệnh thứ 12 (1831), làm chức giáo-thụ. Đến đời vua Tự-Đức, vì ông cậy mình có tài văn-học mà công-danh không bằng người, ông mới tìm một người dòng-dõi nhà Lê, tôn làm minh-chủ, rồi nổi loạn, tục gọi là giặc châu-chấu. Được ít lâu ông bị thua chết.

Văn ông rất hay: Vua Tự-Đức đã có câu thơ khen rằng: « Văn như Siêu Quát vô Tiền-Tấn » ý nói so với văn ông Siêu (tức là quan phó-bảng Nguyễn-Siêu hiệu Phương-Đình) và ông Quát thì văn hay nhà Tiền-Tấn bên Tàu cũng không vào đâu: đương thời cũng có câu rằng: « Thần Siêu thánh Quát ». Ông có tập thơ chữ nho (Cao-chu-Thần thi-tập; Chu-Thần là tên hiệu ông) để lại. Văn nôm cũng hay lắm, còn nhiều bài hát nói truyền-tụng đến giờ.

CHÚ THÍCH. — 1. Là bụi bậm; ý nói hàn-vi — 2. Ý cả câu: Lúc chưa gặp thời thì chưa tỏ được tài chí của mình. — 3. Là trao cho việc lớn. Hai câu này ý nói: trời thường thử người có tài, muốn cho mình làm nên sự-nghiệp lớn, hẵng bắt phải gian-truân cực khổ đã. — 4. Nghĩa là: thân mình vốn của nước của nhà, tất là có việc dùng; trời kia sinh ra người tài giỏi há lại bỏ không ru? — 5. Nghĩa là: thời mà đến thì cá hóa rồng; ý nói: lúc gặp thời hẳn đem tài ra thi-thố mà làm nên công-danh được. — 6. Nghĩa là cùng mãi đến lúc thông, bĩ mãi đến lúc thái. — 7. Nghĩa là đem thân-hình ra mà chịu sai khiến, chịu vất vả.

58. — ĐỜI NGƯỜI THẤM-THOẮT

Nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ 1,
Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày?
Như thoi đưa, như bóng sổ, như gang tay,
Sực nhớ chữ cố-nhân bỉnh chúc 2.
Cao sơn lưu thủy thi thiên trục,
   高 山 流 水 詩 千 軸
Minh nguyệt thanh phong tửu nhất thuyền 3.
   明 月 清 風 酒 一 船