Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/44

Trang này cần phải được hiệu đính.
24
THƠ

28. — SAU KHI RA BẢNG

Bụng buồn còn muốn nói năng chi,
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Một việc văn-chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân-thế có ra gì.
Được gần trường-ốc 3 vùng Nam-định,
Thua mãi anh em đám Bắc-kỳ.
Rõ thật nôm hay mà chữ dốt,
Tám khoa chưa khỏi phạm trường-qui. 4

CHÚ THÍCH. — Cống-hỉ là tiếng Tàu, chính chữ là 恭 禧 cung hi (kính mừng), tiếng để chúc nhau. — 2. Mét-sì (merci) là tiếng Tây, nghĩa là cám ơn. — 3. Là nơi trường thi. — 4. Trường-qui là phép tắc trường thi. Hồi xưa học-trò đi thi phải theo các phép tắc của quan trường định sẵn về cách viết quyển văn, về sự giữ quyển văn sạch sẽ và về các chữ lề lối phải theo, cùng các tên húy phải tránh, v. v.; người phạm trường-qui, dù văn hay chữ tốt đến đâu cũng phải đánh hỏng.

29. — DẠI KHÔN

Thế-sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn?
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại chốn văn-chương ấy dại khôn.
Mấy kẻ nên khôn đều có dại,
Làm người có dại mới nên khôn.
Cái khôn ai cũng khôn là thế,
Mới biết trần-gian kẻ dại khôn.

30. — TÁT NƯỚC

Giấc mộng Nam-kha 1 khéo chập-chờn,
Giữa trời riêng một cảnh giang-sơn.
Cỏ cây vui mắt nằm quên ngủ,
Sấm sét bên tai dạ chẳng chồn,
Chênh-chếch đèn trăng soi trước bóng,
Hiu-hiu quạt gió phẩy bên sườn.
Bởi vì nỗi nước nên ra sức,
Bao quản phong trần mảnh áo đơn.