Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/155

Trang này cần phải được hiệu đính.
135
VĂN-TẾ TRẬN VONG TƯỚNG SĨ

; Lương-giang tức là Phú-lương-giang, tên cũ của sông Nhị-hà. — 3. Điêu-linh là tàn rụng, chỉ những người chả may chết trận. — 4. Viên là viên-môn, cửa dinh (doanh) quan đại-tướng; mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân. — 5. Là áo giáp mũ trụ của tướng sĩ. — 6. Vua Hán Cao-tổ ở bên Tàu khi khởi binh ở đất Bái, họp con em ba nghìn người; đây ví những người theo đức Gia-Long cũng khảng-khái như bọn quân-sĩ vua Hán Cao-tổ vậy. — 7. Tên núi ở tỉnh Thiểm-tây bên Tàu có tiếng là hiểm trở, chỉ hai trăm người địch nổi hai nghìn người; vua Văn-vương nhà Chu sáng nghiệp ở đấy; đây sánh những người theo vua Gia-Long cũng hăng hái như bọn quân sĩ vua Chu Văn-vương vậy. — 8. Cơ đích là hàm thiếc dây cương, ý nói theo vua giữ ngựa. Đây là nói hồi vua Gia-Long bị quân Tây-Sơn đánh thua, phải trốn sang Xiêm-la. — 9. Việt mao là cái phủ việt và cờ tiết mao. Đây là nói hồi vua Gia-Long tự Xiêm về thu phục được thành Gia-định. — 10. Điển cũ: vua Câu-Tiễn nước Việt khi mất nước thường nằm trên gai, nếm mật đắng để nghĩ kế khôi phục; ý nói chịu nỗi khổ sở. — 11. Là Khánh-hòa và Bình-thuận. — 12. Sơn phong là gió núi; khi đức Gia-Long đóng ở đảo Côn-lôn, quân Tây-Sơn chợt đến vây nguy cấp lắm, bỗng dưng trời nổi bão to, thuyền giặc đắm cả, vua mới thoát vây. Hải lễ là nước ngọt ở bể: khi vua Gia-Long đương phải chạy trốn ở ngoài bể, hết cả nước ngọt uống, vua mới khấn trời, chợt thấy ở dưới bể có dòng nước ngọt, múc nước uống mới khỏi khát. — 13. Đây ví vua Gia-Long cũng như vua Hán Cao-tổ và Hán Quang-vũ là hai ông vua sáng nghiệp trung hưng ở bên Tàu. — 14. Đồ-bàn là kinh-đô cũ của người Xiêm-thành, tức la thành Bình-định; Nam, Ngãi là Quảng-nam Quảng-ngãi; Phú-xuân là Huế; Thăng-long là Hà-nội. — 15. Là đạn nhiều như mưa, thang cao giáp mây. — 16. Đây ví các thành tỉnh ấy cũng hiểm cố như đất Lũng là Lũng-tây (ở tỉnh Thiểm-tây) và đất Thục là Tứ-xuyên ở bên Tàu. — 17. Điển cũ: Lời Tư-mã-Thiên nói: « Người ta ai cũng chết mà cái chết có người nặng như núi Thái, cũng có người nhẹ như nắm lông hồng ». — 18. Điển cũ: Lời Mã-Viện nói: « Đứng tài trai nên chết ở nơi chiến-trận lấy da ngựa bọc thây »; ý nói chết ở nơi chiến-trường. — 19. Là nơi tối tăm mênh mang. — 20. Là nơi đất khách quê người. — 21. Là chỗ bến đò ngày xưa. — 22. Đoản là ngắn, tu là dài, ý nói kẻ chết non người sống lâu. — 23. Kim là người đời nay, người còn sống, cổ là người đời xưa, người đã chết. — 24. Bóng bạch câu: Điển cũ: đời người thấm thoắt như bóng ngựa trắng chạy qua cửa sổ thoáng mắt đã mất; ý nói số mệnh (mạng) các quân sĩ ngắn-ngủi. — 25. Phế phủ là buồng phổi và phủ tạng trong người. — 26. Điển cũ: vua Đường Thái-tôn bên Tàu