Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/154

Trang này cần phải được hiệu đính.
134
VĂN-TẾ

từng thượng-trận ngày xưa, dắp tấu công từ ngọ, vị, thân, dậu 31 đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá sổ.

Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa, chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh-hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh-liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo-hóa khéo vô-tình, ngàn năm một hội tao-phùng, phận thủy có, phận chung sao chẳng có 32.

Bản-chức nay, vâng việc biên-phòng; chạnh niềm viễn-thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng-khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng-tượng thầy đâu thì tớ đó.

Nền phủ-định 33 tới đây còn xốc-nổi, vụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương-đồng ngẫm lại vốn đinh-ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ. Có cảm-thông thì tới đó khuyên mời; dù linh-thính hãy nghe lời dặn-dỗ.

Buổi chinh-chiến hoặc là oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu-dương cho; hội thăng-bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa[1], con côi, an-tập hết cũng ban tồn tuất đủ.

Hồn-phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu 34; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ 35.

Cơ huyền-diệu 36 hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố-quận để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền-quân 37; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng-triều cho bể[2] lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo-tộ 38.

CHÚ THÍCH. — 1. Đông-phố là tên cũ thành Gia-định; Sóc-cảnh là cõi Bắc; ý nói tự Gia-định ra tới Bắc-hà (Hà-nội). — 2. Lô-hà nhất danh là sông Tuyên, chảy qua Tuyên-quang rồi đổ xuống sông Nhị-


  1. Quá. —
  2. Biển.