Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/152

Trang này cần phải được hiệu đính.
132
VĂN-TẾ

Những chữ tứ-trụ, chính khanh dùng để nói các hàng quan nào? — Vuốt nanh, then khóa: nghĩa đen và nghĩa bóng. — Chín bệ chỉ ai? — Bắc khuyết, cô thành là những đâu? — Ngọn quang minh, chén tân khổ: nói việc gì? — Tấm trung can, mùi chính khí: nghĩa. — Mặt thân huân, phận truy-tùy là nói những người nào?

2. Tìm trong bài này những câu nào hùng-hồn nhất và giải rõ cái hay trong những câu ấy.

3. Nói qua về phép-tắc lối văn-tế. Lối ấy với lối phú có tương-tự không?

99 — TẾ TRẬN VONG TƯỚNG SĨ

TIỂU DẪN. — Năm 1802 khi vua Gia-Long đã bình định xong Bắc-hà rồi, sai quan tiền-quân quận-công Nguyễn-văn-Thành ở lại làm Tổng-trấn Bắc-thành, còn ngài trở về kinh-đô Phú-xuân. Quan tiền-quân mới sửa một tuần rượu tế các tướng sĩ đã từng theo đức Gia-Long đi đánh dẹp mà chả may xấu số thiệt phận chết ở nơi chiến địa. Lúc tế ông đọc bài văn này, lấy cái cảm tình một ông võ-tướng mà giãi bày công-trạng anh-hùng của kẻ đã qua, thổ-lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống-thiết, giọng văn hùng-hồn, thật là một áng văn-chương tuyệt bút trong nền quốc-âm ta.

Than ôi! Trời Đông-phố vận ra Sóc-cảnh 1, trải bao phen gian-hiểm mới có ngày nay; nước Lô-hà chảy xuống Lương-giang 2, nghĩ mấy kẻ điêu-linh 3 những từ thủa nọ. Cho hay sinh là ký mà tử là qui; mới biết mệnh[1] ấy yểu mà danh ấy thọ.

Xót thay! Tình dưới viên mao 4; phận trong giới-trụ 5. Ba nghìn họp con em đất Bái 6, cung tên ngang dọc chí nam-nhi; hai trăm vầy bờ cõi non Kỳ 7, cơm áo nặng dầy ơn cựu-chủ.

Giấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.

Kẻ thời theo cơ-đích 8 chạy sang miền khách-địa, hăm-hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao 9 trở lại chốn sơ-cơ, dập-dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.


  1. Mạng.