Trang:Nhu tay nhut trinh.pdf/8

Trang này đã được phê chuẩn.
— 9 —

Anglais mua đó đã lâu,[1]
Hồi vua Minh-mạng năm đầu lên ngôi.[2]
Bốn muôn thước, ngó coi dài xọc,
Được vài muôn, bề dọc rộng thinh. 70
Có gần mười vẹo dân tình,
Malabar ít, một mình Chệc đông.[3]
Thới-tây kể ước chừng ngàn chín,
Kể và quan và lính và dân.
Mỗi năm bán mấy triệu hàng, 75
Tính đồ chở tới cũng bằng chở đi.
Cữa Phố-mới, thuế chi cũng khỏi,
Ngỏ đặng nên, đô hội thương nhân.
Xưa kia ước được trăm dân,
Làm nghề chài lưới kiếm ăn qua ngày. 80
Chừ có kẻ, đông tây đủ mặt,
Lại thấy người, nam bắc đến nơi.
Cuộc đời hay đổi hay dời,
Ngày nay thương hải, ngày moi tang điền.
Rủ nhau tới, gây nên cảnh tốt, 85
Kéo ra về, lại hốt bạc qua.
Đắp đàng, mua đất, cất nhà,
Đào kinh, xây cống mở ra cữa hàng.
Phố lầu cất, vài tầng hết thảy,
Mỗi đàng xem, hai dảy ngay hàng. 90
Có làm máy nước bên đàng,
Tay đè thùng hứng nước tràng chảy ra.
Chùa Phước-kiến in chùa ông Hược,[4]
Chùa Quảng-đông thua sút chùa Bà.
Anglais có lập nhà thờ, 95
Kính vì Thượng-đế sanh ra mọi loài.
Đi dạo thấy một vài trường học,
Dạy tiếng người ngoại quốc thông thương.
Ở đây nha phiến có thường,
Gần ba trăm tiệm phô trương bên đàng. 100
Đèn khí thắp, rõ ràng sáng suốt,
Cầu sắt làm, nhắm cuộc vững bền.
Dưới sông sam-bảng chở chuyên,
Trên bờ xe ngựa chạy liền ngày đêm.


  1. Anglais = Ăn-lê. —
  2. canh-thìn, 1820. —
  3. Malabar = Ma-la-ba.
  4. Chùa ông Hược, chùa bà Mả-châu ở tại đàng Mai-sơn tại Chợ-lớn.