Trang:Nhu tay nhut trinh.pdf/7

Trang này đã được phê chuẩn.
— 8 —

Sáu giờ ra khỏi Nam-kỳ,
Thấy trời với nước xanh rì khắp nơi,
Đã nước biển, nghe hơi ngầy ngật,
Lại phần tàu nghiên lắc dật dờ.
Làm cho buồn mữa ngất ngơ, 35
Chóng mày chóng mặt bắt khờ bắt ngây.
Cũng có kẻ không hay dại sóng,
Ấy như người dồi vỏng đã quen.
Nổi dông thì dại sóng liền,
Tịnh trời không thuốc cũng thuyên mới kỳ. 40
Nghỉ tàu sắt, khéo gầy khéo dựng,
Ba bốn từng, coi giống tòa lầu.
Cả trăm ngoài thước trước sau,[1]
Bề ngan mười mấy, bề sâu quá mười.
Trên bòng lái, chơi bời cũng thú, 45
Dưới phòng ăn, phòng ngủ cũng xinh.
Giữa còn sân rộng thinh thinh,
Lễ ngày chúa nhựt, điểm binh mỗi chiều.
Đã ba cột, có nhiều buồn vải,
Lại máy thêm, quạt chạy như dông. 50
Nhà thương, chỗ tắm, chỗ sông,
Đàng bà khác chỗ, đàng ông khác phòng.
Lối trước mủi, có chuồng thú vật,
Chỗ nấu ăn, lại cất cũng gần.
Nội tàu có vỏ có văn, 55
Lương y, linh mục cùng hàng bá công.
Chiều mười một, Côn-nôn trông thấy,[2]
Cảnh tự nhiên, sơn thủy xinh thay.
Chừng vài muôn thước bề dài,
Năm ngàn bề dọc, ngàn ngoài người dân. 60
Côn-nôn đảo, tội nhân đày đó,
Số năm nay, cũng có gần ngàn.
Người làm gạch, kẻ hầm than,
Lớp đi chài lưới, lớp mần rẩy khoai.
Mười giờ tối, mười hai ghé lợi, 65
Đất Malais, Phố-mới cù lao.[3]


  1. Thước nói đây, không phải là thước mộc, cũng không phải là thước hai mươi sáu, hai mươi bảy đồng tiền ta, mà là thước 50 đồng tiền điếu mới ban dùng tại Nam-kỳ đây. Thước tây kêu là mètre.
  2. 21 mars. —
  3. Malais = Ma-lê.