Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

116
NHO-GIÁO


Khổng-tử thích nghĩa hào lục tam ấy, nói rõ trong thiên Hệ-từ hạ rằng: « Thiên địa nhân huân, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh 天 地 絪 緼,萬 物 化 醇,男 女 構 精,萬 物 化 生: Khí trời đất nghi-ngút, trên dưới giao hợp, vạn vật bởi cái khí tinh-thuần ấy mà hóa ra, rồi giống đực giống cái giao-cấu với nhau mà sinh mãi. » Nghĩa chữ thuần là nói giống nào đã sinh ra là cứ tự-nhiên theo giống ấy mà sinh mãi mãi. Vậy vạn vật sở dĩ có, là nhờ có sự sinh của trời đất. Cho nên nói rằng: « Thiên địa chi đại đức viết sinh 天 地 之 大 德 曰 生: Đức lớn của trời đất là sự sinh. » (Hệ-từ hạ).

Xem đó thì biết là cái đạo của Khổng-tử cốt lấy sự sinh làm trọng hơn cả. Ngài cho sự sinh của vạn vật là theo lẽ tự-nhiên. Ta có thể ngắm cảnh tạo-hóa trong vũ-trụ, chỗ nào cũng thấy đầy những sinh-ý và xuân-khí thì biết cái đức của Trời lớn rộng là dường nào! Khổng-tử lấy bốn cái đức của Trời: Nguyên 元, hanh 亨, lợi 利, trinh 貞, ở quẻ Kiền mà nói rõ sự sinh thành của vạn vật. Ngài nói rằng: « Nguyên giả thiện chi trưởng giã, hanh giả gia chi hội giã, lợi giả nghĩa chi hòa giã, trinh giả sự chi cán giã 元 者 善 之 長 也,亨 者 嘉 之 會 也,利 者 義 之 和 也,貞 者 事 之 幹 也: Nguyên là đầu các điều thiện, hanh