Trang:Kinh Thanh Cuu Uoc Va Tan Uoc 1925.pdf/286

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
19 : 23
20 : 3
GIÔ-SUÊ

rồi giáp sông Giô-đanh: hết thảy mười sáu thành với các làng của nó. 23 Các thành nầy cùng những làng của nó, ấy là sản-nghiệp của chi-phái Y-sa-ca, tùy theo họ-hàng của chúng.

24 Phần thứ năm bắt thăm trúng về chi-phái A-se, tùy theo những họ-hàng của chúng. 25 Giới-hạn họ là Hên-cát, Ha-li, Bê-ten, Ạc-sáp, 26 A-lam-mê-léc, A-mê-át, và Mi-sê-anh. Hướng tây nó đụng Cạt-mên và khe Líp-nát; rồi vòng qua phía mặt trời mọc, 27 về lối Bết-Đa-gôn, đụng Sa-bu-lôn và trũng Díp-thách-Ên ở về phía bắc Bết-Ê-méc và Nê-i-ên; đoạn chạy về phía tả Ca-bun; 28 về Ếp-rôn, Rê-hốp, Ham-môn, và Ca-na, cho đến thành lớn Si-đôn. 29 Giới-hạn lại vòng về Ra-ma, cho đến thành kiên-cố Ty-rơ, đoạn chạy hướng Hô-sa, rồi giáp biển tại miền Ạc-xíp. 30 Lại còn có U-ma, A-phéc, và Rê-hốp: hết thảy hai mươi thành cùng các làng của nó. 31 Các thành nầy và những làng của nó, ấy là sản-nghiệp của chi-phái A-se, tùy theo các họ-hàng của chúng.

32 Phần thứ sáu bắt thăm trúng về con-cháu Nép-ta-li, tùy theo những họ-hàng của chúng. 33 Giới-hạn của họ chạy từ Hê-lép, từ cây dẻ-bộp ở tại Sa-na-nim, về lối A-đa-mi-Nê-kép và Giáp-nê-ên cho đến Lạc-cum, rồi giáp sông Giô-đanh. 34 Kế giới-hạn vòng về hướng tây, đi đến Át-nốt-Tha-bô, rồi từ đó chạy về Hục-cốc. Phía nam giáp Sa-bu-lôn, phía tây giáp A-se và Giu-đa; còn phía mặt trời mọc có sông Giô-đanh. 35 Các thành kiên-cố là: Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết, 36 A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so, 37 Kê-đe, Ết-rê-i, Ên-Hát-so, 38 Gi-rê-ôn, Mít-đa-Ên, Hô-rem, Bết-A-nát, và Bết-Sê-mết: hết thảy mười chín thành cùng các làng của nó. 39 Các thành nầy với những làng của nó, ấy là sản-nghiệp của chi-phái Nép-ta-li, tùy theo những họ-hàng của chúng.

40 Phần thứ bảy bắt thăm trúng về chi-phái Đan, tùy theo những họ-hàng của chúng. 41 Giới-hạng sản-nghiệp họ gồm Xô-rê-a, Ết-tha-ôn, Yết-Sê-mết, 42 Sa-la-bin, A-gia-lôn, Gít-la, 43 Ê-lôn, Thim-na-tha, Éc-rôn, 44 Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát, 45 Giê-hút, Bê-nê-Bê-rác, Gát-Rim-môn, 46 Mê-Giạt-côn, và Ra-côn, với đất đối ngang Gia-phô. 47 Vả, địa-phận của người Đan là ra ngoài nơi mình; vì người Đan đi lên đánh chiếm lấy Lê-sem, rồi dùng lưỡi gươm diệt nó. Người Đan chiếm lấy nó làm sản-nghiệp ở tại đó, và lấy tên Đan, tổ-phụ mình, đặt cho Lê-sem. 48 Các thành nầy với những làng của nó, ấy là sản-nghiệp của chi-phái Đan, tùy theo những họ-hàng của chúng.

49 Khi người ta đã chia xứ theo giới-hạn xong rồi, thì dân Y-sơ-ra-ên lấy ở giữa mình một sản-nghiệp mà cấp cho Giô-suê, con trai của Nun. 50 Dân Y-sơ-ra-ên vâng mạng của Đức Giê-hô-va, cấp cho người cái thành mà người xin, tức là thành Thim-nát-Sê-rách trong núi Ép-ra-im. Người xây thành và ở tại đó.

51 Đó là các sản-nghiệp mà thầy tế-lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun, và các trưởng-tộc của những chi-phái dân Y-sơ-ra-ên, bắt thăm phân-phát cho, tại Si-lô, ở cửa hội-mạc trước mặt Đức Giê-hô-va. Ấy họ chia xong xứ là như vậy.

Sáu cái thành ẩn-náu

201 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê rằng: 2 Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Hãy lập các thành ẩn-náu, mà ta đã cậy Môi-se phán cùng các ngươi, 3 hầu cho

— 274 —