TRIỀU THỤC
AN-DƯƠNG VƯƠNG
Ở ngôi năm mươi năm.
Họ Thục, húy Phán,[1] người nước Ba-Thục, đóng đô ở Phong-Khê. ấy tức là thành Cổ-Loa ngày nay.[2]
Giáp-Thìn năm đầu, — năm thứ 58 đời Chu Noãn vương (257 trước Tây-lịch) — Nhà vua đã gồm có nước Văn-Lang, đổi tên nước là nước Âu-Lạc.[3] Nguyên trước nhà-vua luôn-luôn cất quân đánh Hùng-vương. Hùng-vương quân khỏe, tướng mạnh. Nhà-vua thua hoài! Hùng-vương bảo nhà-vua rằng: « Ta có sức thần! Nước Thục không sợ sao? » Bèn bỏ vũ-bị không sửa-sang; mải vui về rượu và đồ nhắm! Quân Thục bức tới gần còn say mèm chưa tỉnh! Quân lính trở giáo đầu hàng. Rồi đó vua Thục đắp thành ở
- ▲ Xét ra, nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận-Thiến-vương nhà Chu đã bị diệt về nước Tần, làm gì còn có vua nữa? Huống chi còn có các nước Kiển-Vi, Dạ-Lang, Cùng-Tạc, Nhiễm-Bàng (nay đều là đất Vân-Nam) cách nhau hai, ba nghìn dậm, nước Thục có vượt sao được các nước mà gồm nuốt Văn-Lang? Sử cũ chép: « Cháu vua Thục là Phán »; lại chép: « An-Dương-vương họ Thục tên Phán, người Ba Thục » Hoặc giả ngoài miền Tây-Nam, bên nước Văn-Lang, có người họ Thục, bèn lầm là vua Thục, cũng chưa biết chừng! Còn bảo là Vua Thục, lại người Ba Thục thì không phải! (K. Đ. V. S. cuốn I)
- ▲ – Thuộc huyện Đông-Ngàn, tỉnh Bắc-Ninh.— Giao-Quảng-Ký của Hoàng-Tham có chép: « Giao-chỉ có ruộng lạc-điền. Người ăn thuế ruộng ấy, gọi là Lạc-hầu. Các huyện tự xưng là Lạc-tướng. Sau con vua Thục đem quân đánh Lạc-hầu, tự xưng là An-Dương-vương đóng ở Phong-Khê. »
- ▲ « Giao-chỉ ở đời Chu là Lạc-Việt, ở Tần là Tây-Âu. Vậy Tây-Âu-Lạc lại ở phía Tây Phiên Ngô » (Dư-địa-chí của Cố-Hy-Phùng),