Trang:DaiVietsukytoanthu1.pdf/122

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
124
NGÔ SĨ LIÊN

Chư-hầu. Khi ấy là năm Kỷ-Sửu, năm thứ 5 đời Hán-Quang-Vũ. Tích-Quang quê ở Hán-Trung, ở Giao-Chỉ, đem lễ nghĩa dậy dân. Lại lấy Nhâm-Diên làm Thái-Thú quận Cửu-Chân[1]. Diên quê ở Uyên. Tục dân Cửu-chân lấy đánh cá, săn bắn làm nghề, không làm việc cầy cấy. Diên bèn dậy dân vỡ ruộng, hàng năm cầy cấy, trăm họ được no đủ. Dân nghèo không tiền làm lễ cưới... Diên sai các quan đầu huyện trở xuống bớt bổng lộc để giúp đỡ cho. Đồng thời lấy được vợ tới hai nghìn người. Coi việc bốn năm triệu về. Người Cửu-Chân lập đền thờ ông; đẻ con ra đều đặt tên là Nhâm. Văn-phong ở Lĩnh-Nam bắt đầu tự hai quan Thái-Thú ấy.

Kỷ-Hợi, năm thứ 15 hiệu Kiến-Vũ đời Hán Quang-Vũ Lưu Tú (39 sau T. L.) — Thái-Thú Giao-Chỉ là Tô Định[2] làm việc tham lam, tàn bạo. Trưng Nữ-vương dấy quân đánh nó.

Trở lên thuộc Hán từ Tân Vị đến Kỷ-Hợi gồm 149 năm.

Phụ chú

(1) « Xét ra phép đời Hán, châu thì đặt Thứ sử, quận thì đặt Thái Thú. Sử cũ chép: « Thạch-Đái làm Thái Thú chín quận, há có lẽ một người coi cả việc chín quận? Nay theo sử Ngô Thì Sĩ cải chính lại. (Chép là: « Hán lấy Thạch Đái làm Thứ-sử bộ Giao-Chỉ ») (K. Đ. V. S.)


  1. « Hậu-Hán-thư: Năm đầu hiệu Kiến-Vũ, Nhâm-Diên được triệu cho làm Thái-Thú Cửu-Chân. Tục Cửu-Chân không biết cầy cấy..., thường đong thóc ở Giao-Chỉ và thường bị túng thiếu. Diên bèn sai đúc các đồ làm ruộng, dậy cho khai khẩn. Mỗi năm ruộng mở thêm rộng, trăm họ được no đủ. Lại dân Lạc-Việt không có lễ giá-thú! Diên bèn sức các thuộc-huyện, cho trai từ 20 đến 50 tuổi, từ 15 đến 40 tuổi, đều sóng tuổi mà lấy nhau. Kẻ nào nghèo không đủ lễ cưới, thì bắt các quan đầu huyện trở xuống, đều bớt bổng lộc để giúp... Năm ấy gió, mưa phải thời, mùa màng được lớn. Kẻ sinh con từ đó mới biết có họ, đều nói: « Làm cho chúng ta có đứa con này chính là ông Nhâm. » Phần nhiều đặt tên con là Nhâm... Người Cửu Chân lập đền thờ sống ông, khi ông bị triệu về. Lại về đời Hán Bình đế, Tích Quang làm Thái Thú Giao Chỉ, đem lễ-nghĩa dậy dân. Năm đầu hiệu Kiến-Vũ được phong làm Diêm-Thủy-hầu. Dân Lĩnh-Nam theo phong-tục Trung-Hoa, bắt đầu từ hai người ấy ». Lời phê của vua Tự-Đức: « Triệu Đà vốn người Tầu, trị nước, truyền đời đã ngót trăm năm. Xem bức thư Đà trả lời Văn Đế thì là người vốn có học-thức. Có lẽ nào lại chưa biết dậy dân cầy cấy, cưới xin, ​mà phải đợi đến hai quan Thú? Huống chi lại nói: « Đồng thời cưới gả đến hơn hai nghìn! » Đủ thấy ghi chép mất thực, không đủ cho người tin. » (K. Đ. V. S. cuốn II) Theo ý kẻ dịch thì lời bàn của Nhà-vua cũng không đủ lẽ. Triệu Đà đóng đô ở Phiên Ngu, cách Cửu-Chân rất xa. Cho nên việc cai trị hạt ấy giao vào tay một viên Điển-sứ. Như vậy, rất có thể chưa từng đem văn hóa Tầu mà deo rắc vào đất ấy. Hãy xem như các dân Thổ, Mán trong nước ta, trải bao nhiêu đời chịu quyền cơ-my của các triều vua ta, mà ngày nay sinh-hoạt và phong-tục họ, còn xa với người Kinh chúng ta bao nhiêu?...
  2. Theo K. Đ. V. S. thì Tô-Định sang nhận chức từ năm Giáp-Ngọ (34 sau T. L.)