lấy đặng tang tài, kể ra bạc là 18 lượng có dư, mỗi đứa phải đánh quyết bảy chục trượng, cùng phải thích hai chữ thuyết đạo trên cánh tay hữu, giao về cho làng Lương-mĩ, làng Đại-định kiết lảnh đem vào bộ, chịu suu sai. Tên Bình, tên Sung, là đứa có tội ăn trộm hãy còn trốn, và tên Dương--văn-Dõng, là cha Dương-văn--Điền, chính là người chịu lấy của ăn trộm gỡi, ngày nào bắt được, sẽ xét nghĩ. Tên Phạm-văn-Nghi cho văn Dõng ở đậu tại nhà, lúc văn Điền đem tang mà gỡi cho văn Dõng giấu trong nhà nó, hỏi quả nó đi khỏi, không hay biết. Tên Đăng-văn-Bài mua lầm cau ăn trộm hai trăm cân, giá tiền 12 quan, đã có thâu lại mà thường cho chủ bị ăn trộm, là Hồ-văn-Trụ nhận lảnh rồi. Lẽ phải nghị tội các người ấy, song tra ra tên Nghi, tên Bài, chắc không hay biết sự gì, cho nên nghị tha cả hai. Thôn trưởng làng Lương-mĩ, là Nguyễn-văn-Lợi, ẩn lậu cho Lê--văn--Ngộ; thôn trưỏng làng Đại-định, là Huình-văn-Tại, ẩn lậu cho Dương-văn-Điền, vốn chẳng hay kềm thúc, để cho văn Ngộ, văn Điền đặng thế hiệp bọn, ăn trộm, chẳng lẽ bỏ qua mà chẳng nói. Vậy Nguyễn-văn--Lợi, Huình--văn-Tại, đều phải chiếu theo luật ẩn lậu một người có gia sản, đánh quyết mỗi tên sáu chục trượng, để mà răn dạy. Người bị ăn trộm cau, như thị Thọ, văn Trụ, vốn đã đặng bồi thường thì thôi. Còn Nguyễn--thị-Hợi, khai mất tài vật các hạng trị giá 110 quan tiền, trừ sự đã lấy được thiệt tang, trị giá 20 quan 2 tiền, còn thiếu 89 quan 8 tiền, cứ số tịch phong gia tài văn Điền, văn Ngộ, được có 11 quan 8 tiền, cấp thường cho thị Hợi nhận lảnh, còn thiếu 78 quan 1 tiền, đợi chừng nào bắt đặng các tên còn trốn, thì sẽ đòi mà trả.
Đồ nghề ăn trộm, một cái ống ruột gà đèn ló, nghĩ phải phá hũy; còn những người không mắc trong án nầy, thì không phải nói tới.