đương thì bay nhảy, một lớp học với người ta, mà người ta thì đậu đã đời nào, làm quan lớn, vỏng lọng nghing ngang, hầu vợ nhớn nhỡ, vang hiển trong đời; còn lực học mình thì hơn người ta, vào trường nào cũng hỏng, lao đao, lận đận, không mở mày mặt với anh em, thà chết chẳng thà chịu nhục.
Ông Thiệu-nghiêu-Phu, biết ý tên học trò, bôn bức công danh, hay than thân trách phận, thường lấy chữ học tài thi mạng mà khuyên giải, nói rằng: ấy là tại mạng lý con chưa tới, như mạng lý con tới rồi, thì cuộc công danh phú quí có mấy hồi, nội trong một điềm chiêm bao cũng ngó thấy, có lâu lắc chi mà phòng lo cho nhọc.
Tên học trò nghe nói, bèn xin cho ngó thấy cuộc vinh hiển một chút cho thỏa tấm lòng, kẻo đàng công danh còn dài, có thi nữa cũng chưa chắc là đậu rớt, may gặp ông Lử-tiên[1] kể qua các chuyện, ông Lữ-tiên dạy rằng qua ngày mai đi với thầy, thầy sẽ cho coi.
Tên học trò về nhà bồi hồi ngủ không đặng, trông cho sáng mà qua trường. Thầy trò đem nhau đi hơn nữa ngày, không thấy sự gì. Trưa nắng, đói bụng, thầy trò ghé quán, hối chủ quán nấu cơm. Chủ quán lật đật đi lấy gạo huình lương vo mà nấu; mới bắc nồi cơm lên bếp, thì tên học trò đã buồn ngủ, kéo gối mà nằm. (Có kẻ nói ông Lữ-tiên đã có làm phép trong cái gối). Tên học trò nằm xuống, liền ngó thấy một điềm chiêm bao: thấy mình vào thi hội đậu tấn sĩ, làm tri phủ, lần lần làm tới án sát, bố chánh, tuần phủ, đi 4 lọng, vỏng điều, ngáng ngà, quân lính hầu hạ đỏ đường; đi có cờ ngủ hành, có đại cổ, tiểu cổ, vinh hiển dưới thế; còn ở tại dinh tư thì có hầu thiếp 16, 17 tuổi, trắng trẻo lịch sự như tiên; quân hầu nhà khách, nhà bông, nhà trà,
- ▲ Lữ-tiên thì là Lữ-đồng-Tân, cũng là một vì trong tám ông tiên, hay xuống cỏi trần, cũng gọi là Lử-thuần-dương.