cục cựa. Mấy người hái củi sảng sốt xé áo ra mà ràng rịt chỗ phạm ấy, xúm nhau lại dịnh Nột về, mẹ ghẻ khóc mắng rằng: mầy giết con tao, mầy làm bộ cắt cổ cho khỏi tiếng nói đó. Nột rên mà rằng: mẹ đừng lo buồn, em tôi chết, tôi chẳng có lẽ sống. Đem Nột lên giường đau đớn nằm không đặng, những ngồi dựa vách mà khóc. Cha sợ Nột cũng chết luôn, mỗi bữa thường lại giường đút cơm cho ăn, Mẹ ghẻ thấy vậy lại càng chưởi mắng. Nột thấy vậy bỏ ăn ba bữa mà chết.
Thuở ấy trong làng có một người thầy pháp hay đi âm phủ, Nột gặp dọc đàng khóc lóc hỏi thăm em ở đâu! Thầy pháp nói không nghe ở đâu, bèn trở lại đem Nột đi tới một chỗ đô hội, thấy một người bận áo đen ở trong thành bước ra, thầy pháp đón hỏi giùm. Người áo đen kéo đãy ra, soạn giấy dư trăm mà không có họ Trương; thầy pháp nghi còn có giấy khác. Người áo đen nói, đuờng nầy về phần ta coi, có giấy nào lọt được. Nột không tin, nài thầy pháp vào thành, thấy quỉ mới quỉ cũ lăng xăng rộn ràng, cũng có người quen, hỏi thăm không ai biết cả. Thoát chúc nghe tiếng reo lên, nói có Phật Bồ-tác ngự, ngữa mặt lên ngó thấy trên không có một người lớn, hào quang sáng suốt, thầy pháp mầng rằng: anh hai có phước là dường nào! Phật Bồ-tác mấy ngàn năm mới ngự vào chốn âm ti mà cứu người khổ nảo, nay gặp thì là may lắm. Thầy pháp nói bắt Nột quì, còn các quỉ thì xăng văng nhảy nhót chúc tụng bốn chữ từ bi cứu khổ. Tiếng tung hô dậy đất. Khi ấy Phật Bồ-tác lấy một nhành dương rưới nước cam lồ xuống mù mù như sương, giây phút tan sương Phật Bồ-tác biến mất. Nột rờ cổ nghe ướt ướt, chỗ dấu búa không còn đau nữa. Tên thầy pháp bèn đem Nột trở về ngó thấy làng, mới từ biệt mà đi. Nột chết hai ngày