Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

五日驚寒懶出門,
東風先已到孤根。
影橫水面冰初泮,
花壓枝頭暖未分。
翠羽歌沉山店月,
畫龍吹濕玉關雲。
一枝迷入故人夢,
覺後不堪持贈君。

Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thúy vũ[1] ca trầm sơn điếm nguyệt,
Họa long[2] xuy thấp Ngọc Quan[3] vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân[4].

Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ.
Giọng ca Thúy vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi.
Tiếng sáo Họa long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,
Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.

   




Chú thích

  1. Tức "Thúy vũ ngâm", tên một từ khúc. Cung điệu của khúc ngâm này còn thấy ở bài "Trúc sơn từ" của Tưởng Tiệp. Lời đề tựa của ông nói: Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát theo Việt điệu tên là "Tiểu mai hoa dẫn", bảo ta lấy ý bay lên tiên, bước trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát...
  2. Có lẽ là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Từ hải dẫn lời của Thẩm Ước, Từ Quảng nói rằng tù và của người Hồ chỗ tay cầm vẽ con giao long có chân năm sắc
  3. Tên một cửa ải trên đường đi sang Tây Vực thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. ở đây tác giả mượn để miêu tả tiếng sáo Họa Long làm ẩm ướt cả đám mây trên cửa ải
  4. Hai câu cuối lấy ý trong điển Nhất chi xuân, rút từ câu thơ của Lục Khải tặng Phạm Diệp: "Chiết mai phùng dịch sử, Ký dữ lũng đầu nhân. Giang Nam hà sở hữu, Liêu tặng nhất chi xuân" (Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm, gửi cho người ở Lũng Đầu. Đất Giang Nam có gì đâu, hãy tặng anh một cành xuân). Nhưng ở đây tác giả chỉ có cành mai trong giấc mộng nên không thể đem tặng bạn được