Quyết định về tình trạng kinh tế thị trường/phi thị trường của Việt Nam

Quyết định về tình trạng kinh tế thị trường/phi thị trường của Việt Nam  (2001) 
của Chính phủ Hoa Kỳ, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Toàn văn quyết định

Tài liệu Công khai Vụ điều tra A-552-801

Bản ghi nhớ gửi cho: Faryar Shirzad, Trợ lý Bộ trưởng Cục Quản lý Nhập khẩu

Ðược thông qua:

  • Jeffrey May, Giám đốc Văn phòng Chính sách, Cục Quản lý Nhập khẩu
  • Albert Hsu, Chuyên gia kinh tế cao cấp, Văn phòng Chính sách, Cục Quản lý Nhập khẩu

Người soạn thảo: Shauna Lee-Alaia; George Smolik; Athanasios Mihalakas; Lawrence Norton; Văn phòng Chính sách, Cục Quản lý Nhập khẩu

Về vấn đề: Ðiều tra về mức thuế chống bán phá giá một số mặt hàng cá phi-lê đông lạnh từ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam - Xác định Tình trạng Kinh tế Thị trường

Tóm tắt

Ðáp lại sự viện dẫn của nguyên đơn trong tiến trình điều tra nêu trên rằng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ("Việt Nam") có nền kinh tế phi thị trường ("NME" - Non-Market Economy), Văn phòng Chính sách đã tiến hành phân tích các cải cách kinh tế của Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong một số cải cách kinh tế, song phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng Việt Nam chưa tiến hành thành công việc chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường.

Bộ Thương mại Hoa Kỳ công nhận rằng Chính phủ Việt Nam đã tiến hành những bước đi đáng kể để mở cửa thị trường của mình cho cộng đồng quốc tế và đã cho phép một số lượng hạn chế các lực lượng cung cầu tác động đến sự phát triển kinh tế của mình. Ví dụ, tiền lương trong khu vực tư nhân thường được xác định thông qua đàm phán giữa người lao động và nhà quản lý lao động. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành nhiều cải cách pháp lý tích cực dẫn đến sự tăng trưởng rõ rệt và liên tục của khu vực kinh tế tư nhân.

Tuy nhiên, mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế vẫn còn làm cho giá cả và chi phí không phải là thước đo có ý nghĩa của giá trị. Ðồng tiền Việt Nam, tiền đồng, chưa hoàn toàn có khả năng chuyển đổi, và phải chịu các hạn chế đáng kể trong việc sử dụng, chuyển nhượng và xác định tỷ giá hối đoái. Ðầu tư trực tiếp nước ngoài được khuyến khích, nhưng Chính phủ vẫn còn duy trì việc định hướng và kiểm soát thông qua các quy định. Tương tự như vậy, mặc dù các loại giá cả hầu hết đã được tự do hóa, nhưng Ban Vật giá Chính phủ vẫn tiếp tục duy trì sự kiểm soát tùy ý đối với giá cả trong các lĩnh vực nằm ngoài những lĩnh vực đặc trưng được coi là độc quyền tự nhiên. Việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng do Nhà nước nắm giữ diễn ra chậm, do đó ngăn không cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực, và tránh cho khu vực nhà nước khỏi sự cạnh tranh. Vấn đề cuối cùng là quyền sở hữu đất tư nhân không được cho phép và Chính phủ chưa khởi xướng chương trình tư nhân hóa đất đai.

Bởi vậy, trên cơ sở đa số chứng cứ liên quan đến các cải cách kinh tế tại Việt Nam cho đến ngày hôm nay, được phân tích theo quy định tại mục 771(18)(B) của Ðạo luật Thuế quan năm 1930 ("Ðạo luật"), đã được sửa đổi bổ sung, chúng tôi khuyến nghị rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ ("Bộ Thương mại") coi Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường khi tiến hành điều tra thuế chống bán phá giá ("AD" - antidumping) và thuế chống trợ giá.

Bối cảnh

Ngày 28 tháng 6 năm 2002, Bộ Thương mại đã nhận được đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá đối với một số mặt hàng cá phi-lê đông lạnh từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ("Việt Nam") được nộp theo đúng hình thức quy định, bởi các chủ trang trại nuôi cá da trơn ("CFA") và cá nhân các nhà chế biến cá da trơn Hoa Kỳ: Công ty America's Catch Inc.; Công ty Consolidated Catfish L.L.C.; Công ty Delta Pride Catfish; Công ty Harvest Select Catfish; Công ty Heartland Catfish; Pride of the Pond; Công ty Simmons Farm Raised Catfish; Công ty Southern Pride Catfish, sau đây được gọi chung là "các nguyên đơn".

Theo mục 732(b) của Ðạo luật, các nguyên đơn cho rằng một số mặt hàng cá phi-lê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam được bán, hoặc dường như được bán tại Hoa Kỳ thấp hơn giá trị hợp lý theo quy định của mục 731 của Ðạo luật, và những hàng nhập khẩu này gây thiệt hại vật chất và đe doạ một ngành công nghiệp tại Hoa Kỳ. Trên cơ sở thẩm định đơn kiện cá phi-lê đông lạnh từ Việt Nam, chúng tôi thấy rằng đơn kiện đáp ứng được các yêu cầu của mục 732 của Ðạo luật, và do vậy chúng tôi đã khởi xướng việc điều tra thuế chống bán phá giá vào ngày 18 tháng 7 năm 2002.

Liên quan đến luật pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ, các nguyên đơn cũng cho rằng Việt Nam có nền kinh tế phi thị trường. Bộ Thương mại nhận thấy các lập luận của nguyên đơn là khá thỏa đáng nên đã khởi xướng điều tra về các cải cách kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc điều tra nói trên.

Ngày 14 tháng 8 năm 2002, Bộ Thương mại đã đăng tải Thông báo tại Công báo Liên bang, tuyên bố điều tra các lập luận của nguyên đơn và đề nghị công chúng cho ý kiến bình luận về các cải cách kinh tế của Việt Nam, thời hạn đến ngày 4 tháng 9 năm 2002. Thời hạn này được gia hạn đến ngày 2 tháng 10 theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam. Các ý kiến tranh luận được tiếp nhận cho đến ngày 15 tháng 10 năm 2002. Ngày 2 tháng 10 năm 2002, đại diện Hiệp hội các nhà Xuất khẩu và Chế biến Thủy sản Việt Nam đã đề nghị tiến hành một buổi điều trần, nhưng đề nghị này đã được rút lại hôm 15 tháng 10 năm 2002. Tóm tắt các nhận xét và ý kiến tranh luận từ các bên

Các bên ủng hộ việc xác định Việt Nam là nền kinh tế thị trường

Chính phủ Việt Nam (do công ty luật Willkie Farr & Gallagher làm đại diện), Bị đơn (Hiệp hội các nhà Xuất khẩu và Chế biến Thủy sản Việt Nam, do công ty luật White & Case làm đại diện) và một số các bên công chúng, bao gồm: Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam, Phân nhánh Thành phố Hồ Chí Minh; Công ty American Standard Việt Nam; Công ty Cargill; Công ty Chinfon Global; Ngân hàng CitiGroup; Công ty New York Life International; Công ty Unilever; Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN; Hội đồng Thương mại Việt - Mỹ; Công ty Vedan Việt Nam; và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đã bày tỏ sự ủng hộ việc công nhận tình trạng kinh tế thị trường của Việt Nam. Các bên nêu trên đã đệ trình các nhận xét và ý kiến tranh luận được tóm tắt dưới đây:

  • Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động như một ngân hàng trung ương độc lập và duy trì một tỷ giá duy nhất theo cung cầu thị trường.
  • Tiền đồng là một đồng tiền có khả năng chuyển đổi theo cùng lập luận phân tích đã xác định rằng Kazakhstan là một nền kinh tế thị trường.
  • Các công ty đầu tư nước ngoài có thể chuyển đồng tiền Việt Nam thu được từ hoạt động kinh doanh của họ tại Việt Nam sang các ngoại tệ mạnh cho các giao dịch thương mại, thanh toán hợp đồng, trả các khoản vay, đầu tư, hoặc chuyển lợi nhuận.
  • Việt Nam sẽ chính thức chấp thuận các nghĩa vụ của Ðiều VIII - Quỹ Tiền tệ Quốc tế vào năm 2004. Tuy nhiên, các điều kiện tiên quyết của sự chấp thuận sẽ được đáp ứng vào cuối năm nay.
  • Ðược quyền chuyển vốn đầu tư về nước sau khi đã nộp thuế. Yêu cầu kết hối có thể được loại bỏ vào cuối năm nay. Thuế chuyển lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ("FIEs" - Foreign Invested Enterprises) sẽ được loại bỏ vào cuối năm nay.
  • Bộ luật Lao động của Việt Nam giữ vững nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa người lao động và người thuê lao động theo mức bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu và bảo đảm sự tự do di chuyển lao động. Minh chứng về quan hệ cung cầu trên thị trường lao động gồm có việc tăng lương đối với lao động có tay nghề và các vấn đề về lôi kéo, thu hút người lao động. Các công ty tham gia đóng góp ý kiến đã thuê lao động một cách trực tiếp với mức lương tự do thỏa thuận.
  • Các tổ chức công đoàn của Việt Nam đóng vai trò tích cực và có các hoạt động không chịu tác động của Chính phủ.
  • Luật Ðầu tư Nước ngoài đã được sửa đổi, bổ sung để tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài và bảo đảm các quyền của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư có quyền lập liên doanh với các đối tác trong nước trong các lĩnh vực còn có những hạn chế. Chính phủ đã giảm bớt các yêu cầu cấp phép, rút ngắn thời gian xét duyệt và tiến hành nhiều bước nhằm giảm các chi phí đất đai và tiền thuê đất. Hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được cho phép trong hầu hết các ngành công nghiệp. Các lĩnh vực mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bị hạn chế cũng giống với các lĩnh vực tương tự tại các nền kinh tế thị trường khác.
  • Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền nhập khẩu trực tiếp những hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho dự án của mình.
  • Cơ cấu thuế của Việt Nam tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
  • Chế độ hai giá được loại bỏ dần.
  • Những cải cách về mặt pháp lý, cùng với khả năng tăng xuất khẩu theo Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (“BTA”), và sự ổn định chính trị đã cải thiện lòng tin của các nhà đầu tư, điều này được chứng thực thông qua mức tăng đáng kể các dòng đầu tư trực tiếp của nước ngoài (“FDI” - Foreign Direct Investment) vào Việt Nam.
  • Việt Nam bảo đảm các quyền sở hữu tài sản tư nhân, công nhận sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nhà nước, và đã loại bỏ vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước ("SOEs" - State-Owned Enterprises).
  • Hơn 12 triệu hộ gia đình kinh doanh một cách độc lập trong các lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản, đóng góp hơn 98% GDP của ngành nông nghiệp và 95% khu vực kinh tế nông nghiệp nằm trong tay tư nhân.
  • Mặc dù chậm hơn dự kiến, nhưng chương trình cải cách SOE sẽ được tái thúc đẩy phù hợp với các hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới.
  • Việc cải cách SOE đã làm giảm 50% số lượng các SOE so với năm 1990. Ngoại trừ các doanh nghiệp phục vụ công cộng, đa số các SOE tự chủ trong kinh doanh và hoạt động theo các nguyên tắc thương mại.
  • Chỉ có 40% ngành công nghiệp là do Nhà nước sở hữu, tập trung vào một số ít lĩnh vực riêng biệt và thường bao gồm cả những liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài.
  • Ðất đai là một loại hàng hóa có thể mua bán và thị trường đất đai vận hành giống như hoạt động của thị trường đất đai tại Australia và Hồng Kông trước đây. Người nắm quyền sử dụng đất có thể sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, và cho thuê, và có thể dùng đất đai để thế chấp cho các khoản vay. Hiện nay, giá cả quyền sử dụng đất dao động theo cung cầu của thị trường.
  • Có một số lớn các hoạt động kinh tế không chính thức (không đăng ký) nằm ngoài các thống kê chính thức.
  • Chính phủ không bao giờ kiểm soát chặt chẽ các quyết định về giá cả, phân bổ và sản lượng của các doanh nghiệp như tại các nước cộng sản khác, và đã bắt đầu tự do hóa sớm hơn.
  • Chính phủ chỉ xác định giá cả trong những lĩnh vực độc quyền tự nhiên, và điều chỉnh giá cả đối với các sản phẩm khác (như xăng dầu, kim loại, xi-măng và giấy) và các giá cả được quản lý này thường được điều chỉnh để phản ánh đúng các chi phí.
  • Chính phủ tiếp tục bãi bỏ các kiểm soát về giá. Năng lượng, nước, và các yếu tố phục vụ sản xuất khác được cung cấp đầy đủ với mức giá thường được xác định bởi cung và cầu.
  • Pháp lệnh về Giá năm 2002 tương tự như pháp luật về chống độc quyền và chống phá giá của các nền kinh tế thị trường.
  • Các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng tiếp tục được thúc đẩy.
  • Trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam, một số mặt thiếu chiều sâu và biến dạng cũng giống như tại các nước trước đây đã được xem xét là có nền kinh tế thị trường.
  • Ngân hàng Trung ương Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ("SBV" - State Bank of Vietnam) mới ban hành chính sách lãi suất tự do và chỉ sử dụng mức lãi cơ sở để tham khảo. Việc phân bổ nguồn vốn ngày càng theo ảnh hưởng của các mức lãi suất.
  • Ngày nay, các ngân hàng thương mại quốc doanh cung cấp tới 60% các khoản vay ngân hàng cho các doanh nghiệp tư nhân.
  • Các công ty của Hoa Kỳ đều kiểm soát được việc phân bổ nguồn vốn của mình và các đơn vị bình luận không gặp phải bất kỳ sự can thiệp phi lý nào của Chính phủ trong các quyết định kinh doanh của họ, bao gồm việc định giá, phân phối, năng lực sản xuất và bảo đảm tài sản kinh doanh.
  • Khu vực tư nhân chiếm 60% GDP, tương tự như ở Kazakhstan.
  • Luật Doanh nghiệp bảo đảm các quyền tự do cơ bản của doanh nghiệp và Nhà nước hạn chế không can thiệp vào tiến trình đồng bộ của việc đăng ký kinh doanh.
  • Khu vực kinh tế tư nhân được công nhận và được khuyến khích theo Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000, dẫn tới sự phát triển của hơn 82.000 doanh nghiệp. Chính phủ đã hợp lý hóa thủ tục cấp phép của mình, và thay thế các yêu cầu phân biệt đối xử về vốn trên cơ sở hình thức sở hữu bằng các yêu cầu cẩn trọng.
  • Bộ Thương mại cần đánh giá hợp lý các cam kết quan trọng của Việt Nam trong tự do hóa thương mại và trong việc tạo dựng một môi trường cạnh tranh thông qua hội nhập toàn cầu. Nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh này, Việt Nam đã thực hiện sớm hơn lộ trình các nghĩa vụ của mình theo BTA và Hiệp định Tự do Thương mại châu Á. Việt Nam đang cập nhật hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với BTA.
  • Thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam ngày càng tăng. ấn định tình trạng kinh tế phi thị trường đối với Việt Nam sẽ gây tổn hại tới những phát triển tích cực này.
  • Việt Nam đã bắt tay vào một chương trình cải cách mạnh mẽ nhằm xây dựng một hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại. Các công ty tư nhân có thể tham gia vào những hợp đồng tư với các doanh nghiệp Việt Nam khác và tin tưởng rằng mình sẽ được tôn trọng.

Các bên ủng hộ việc xác định Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường

Các nguyên đơn (các chủ trang trại cá da trơn và cá nhân các nhà chế biến cá da trơn do công ty luật Akin Gump Strauss Hauer & Fed LLP làm đại diện) đã đưa ra những nhận xét và ý kiến tranh luận được tóm tắt dưới đây để ủng hộ việc xác định rằng Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường.

  • Tiền đồng không được tự do chuyển đổi cho toàn bộ các giao dịch thương mại theo yêu cầu của các đơn vị trong nước và nước ngoài.
  • Việt Nam chưa thực hiện các nghĩa vụ trong Ðiều khoản VIII của IMF.
  • Yêu cầu kết hối ngoại tệ áp dụng cho các giao dịch chuyển tiền trên tài khoản vãng lai là 30%.
  • SBV vẫn chịu sự kiểm soát của Nhà nước.
  • Không cho phép thỏa thuận tự do về tiền lương giữa người lao động và nhà quản lý lao động do có sự kiểm soát của Chính phủ đối với các mối quan hệ giữa người lao động và nhà quản lý lao động.
  • Pháp luật lao động được ban hành gần đây cùng với các sửa đổi bổ sung đã làm phức tạp thêm các mối quan hệ lao động.
  • Chính phủ hạn chế việc phổ biến thông tin về tình trạng thị trường lao động.
  • Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị hạn chế trong việc tuyển dụng trực tiếp lao động và phải trả mức lương tối thiểu cao hơn.
  • Nhà nước có vai trò mang tính can thiệp xâm phạm vào khu vực đầu tư nước ngoài, vì thế làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bị phụ thuộc vào những động lực chính trị của Việt Nam.
  • Luật cạnh tranh không rõ ràng và không có khả năng tạo điều kiện cho cạnh tranh hoàn hảo theo cơ chế thị trường và cho đến tháng 10/2003 mới được ban hành.
  • Tính hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã bị mất đi trong những năm gần đây. Những luồng đầu tư lớn vào giữa những năm 1990 không thể được coi là bình thường được.
  • Chính phủ sở hữu toàn bộ đất đai ở Việt Nam và không công nhận các quyền sở hữu đất tư nhân.
  • Người nước ngoài không được sở hữu quyền sử dụng đất và chỉ có thể thuê đất của Chính phủ hoặc thành lập liên doanh với bên đối tác Việt Nam nắm giữ quyền sử dụng đất.
  • Các SOE chiếm từ 7% đến 15% tổng số doanh nghiệp.
  • Khu vực Nhà nước đóng góp 39% GDP vào năm 2001, chỉ thấp hơn mức của năm 1996 có 1%. Phần đóng góp của khu vực ngoài quốc doanh trong GDP giảm từ 53% năm 1996 xuống 48% năm 2001.
  • Chính phủ hạn chế các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào một số lĩnh vực, vì thế cho phép nhiều SOE hoạt động trong một môi trường gần như không có cạnh tranh.
  • Trong năm 2001, 70% tín dụng ngân hàng là dành cho các SOE, làm hạn chế đáng kể phần tín dụng có thể dành cho các doanh nghiệp tư nhân.
  • Ban Vật giá Chính phủ của Việt Nam trực tiếp ấn định giá cả trong nhiều ngành công nghiệp.
  • Các SOE có ít nhất là 80% thị phần trong các ngành điện lực, hàng không và bưu chính viễn thông.
  • Các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam phải chịu mức giá hàng hóa và dịch vụ cao hơn so với người tiêu dùng trong nước.
  • SBV kiểm soát bốn ngân hàng thương mại quốc doanh - chiếm 80% lĩnh vực ngân hàng.
  • Hiến pháp đảm bảo quyền tối cao của Ðảng Cộng sản và các nguyên tắc của Ðảng.
  • Việt Nam vẫn còn chậm trong việc phấn đấu gia nhập WTO.
  • Pháp quyền kém phát triển.

Phương pháp phân tích

Trong việc đưa ra quyết định một nước là nền kinh tế phi thị trường theo Mục 771(18)(A) của Ðạo luật, Mục 771(18)(B) yêu cầu rằng Bộ Thương mại phải xem xét các yếu tố sau:

  1. Mức độ mà đồng tiền của quốc gia nước ngoài có khả năng chuyển đổi sang đồng tiền các nước khác;
  2. Mức độ mà tiền lương tại quốc gia nước ngoài được xác định bởi sự mặc cả tự do giữa người lao động và nhà quản lý lao động;
  3. Mức độ các liên doanh hoặc các hình thức đầu tư của các nước khác được cho phép tại quốc gia nước ngoài;
  4. Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất chủ yếu;
  5. Mức độ kiểm soát của Chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực, và đối với các quyết định về giá cả và sản lượng của các doanh nghiệp;
  6. Những nhân tố khác mà cơ quan thẩm quyền xem là thích hợp.

Khi đánh giá sáu yếu tố nêu trên, Bộ Thương mại đã nhận thấy rằng nếu chỉ xét việc nền kinh tế của một nước không còn chịu sự kiểm soát của Nhà nước, thì vẫn chưa đủ để coi nước đó là một nền kinh tế thị trường. Xem Thông báo Quyết định cuối cùng về việc Bán thấp hơn giá hợp lý: Magiê nguyên chất và Magiê hợp kim từ Liên bang Nga (60 Thông cáo Liên bang 16440, 16443, ngày 30/3/1995). Thay vào đó, Bộ Thương mại xét xem liệu các nhân tố theo đúng các tiêu chí luật định có chứng tỏ rằng nền kinh tế đó nhìn chung vận hành theo các nguyên tắc thị trường hay không. Ðể đạt được mục đích này, Quốc hội đã đưa ra sáu yếu tố kể trên mà Bộ Thương mại, theo đánh giá của minh, phải xem xét để quyết định xem liệu các lực lượng thị trường tại nước đang được xem xét có đủ phát triển để cho phép sử dụng giá cả và chi phí tại nước đó vào việc phân tích phá giá của Bộ Thương mại hay không.

Lý lẽ cho phân tích này là giá cả và chi phí là trọng tâm của việc phân tích phá giá và tính toán giá trị thông thường của Bộ Thương mại. Vì vậy, giá cả và chi phí mà Bộ Thương mại sử dụng phải là những thước đo giá trị có ý nghĩa. Theo nguyên tắc chung, giá cả trong nền kinh tế phi thị trường không phải là thước đo giá trị có ý nghĩa vì chúng không phản ánh đầy đủ tình hình về nhu cầu hoặc mức khan hiếm tương đối của các nguồn lực được sử dụng trong sản xuất. Vấn đề đối với các nền kinh tế phi thị trường không phải là vấn đề giá cả bị bóp méo, bởi vì thật sự là rất ít khi, nếu có, giá cả trong nền kinh tế thị trường là thước đo giá trị hoàn hảo, không hề bị bóp méo bởi các nhân tố khác (ví dụ thuế, trợ cấp, hoặc các biện pháp quản lý khác của Chính phủ). Thay vào đó, vấn đề lại là ở quá trình xác lập giá trong các nền kinh tế phi thị trường (ví dụ, không có các yếu tố cung và cầu tác động một cách riêng rẽ hoặc tổng hợp để tạo điều kiện cho hoạt động của một hệ thống giá trên cơ sở thị trường).

Ðánh giá của Bộ Thương mại theo các tiêu chí quy định không đòi hỏi rằng các nước phải được đánh giá theo một mô hình lý thuyết hoặc theo một nền kinh tế tự do cạnh tranh hoàn hảo. Thay vào đó, quyết định của Bộ Thương mại được dựa trên việc so sánh các đặc tính kinh tế của nước đang được xét với hoạt động của các nền kinh tế thị trường khác, và trên cơ sở thừa nhận rằng các nền kinh tế thị trường trên thế giới có nhiều hình thức và đặc tính khác nhau. Mặc dù một nước không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ từng yếu tố luật định tương ứng với các nền kinh tế thị trường khác, nhưng Bộ Thương mại phải xác định rằng tổng hợp các yếu tố cho thấy những cải cách đã đạt tới một mức ngưỡng để có thể coi là nước đó có một nền kinh tế thị trường đang vận hành.

Bộ Thương mại đã xem xét thận trọng các dữ kiện và lý lẽ do tất cả các bên trình bày trong tiến trình điều tra này. Ngoài ra, phù hợp với thực tiễn của Bộ Thương mại trong quá trình xử lý trước khi quyết định về nền kinh tế thị trường, Bộ đã dựa vào những đánh giá chuyên môn của các bên thứ ba như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu, Ngân hàng Phát triển châu Á, Cơ quan Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương và Bộ phận Phân tích Tổng hợp của Tạp chí Economist.

Khái quát các cải cách kinh tế và pháp lý

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu với khoảng 80 triệu dân. Năm 1989, các vấn đề về quản lý cung cấp lương thực và tỷ lệ lạm phát cao đã thúc đẩy Chính phủ tiến hành một số cải cách trong chương trình đổi mới về kinh tế đã bắt đầu từ trước đó ba năm. Ðồng tiền của Việt Nam là tiền đồng bị phá giá, các hợp tác xã nông nghiệp được loại dần tính tập thể hoá, các hạn chế đối với nội thương được loại bỏ, ngân hàng trung ương được thành lập, và hầu hết các trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cho các SOE được loại bỏ. Kết quả là lạm phát giảm, sản lượng nông nghiệp tăng rất nhanh, Việt Nam (từ lâu là nước nhập khẩu ròng về lương thực) đã trở thành một nước xuất khẩu ròng về gạo, khu vực dịch vụ bắt đầu phát triển nhanh chóng và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tăng lên. Mới đây, để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, với những phản hồi bất lợi ngày càng gia tăng sau đợt cải cách đầu tiên, và với sự phát triển nhanh của lực lượng lao động, Chính phủ đã bắt đầu tập trung vào các vấn đề cải cách cơ cấu khó khăn hơn liên quan đến khu vực ngân hàng, các SOE, các chính sách thương mại và ngoại hối và khu vực kinh tế tư nhân. Nằm trong chiến lược cải cách pháp luật chung của Chính phủ, một chương trình đánh giá các nhu cầu về pháp luật cũng đang được tiến hành.

Yếu tố thứ nhất: Mức độ mà đồng tiền của quốc gia nước ngoài có khả năng chuyển đổi sang đồng tiền các nước khác

Việc hội nhập của một nước vào thị trường thế giới phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi của đồng tiền nước đó. Mức độ chuyển đổi của đồng tiền càng lớn, đối với cả các mục đích thương mại lẫn mục đích đầu tư, thì các lực lượng cung và cầu kết nối giá cả thị trường trong nước với giá cả thị trường thế giới lại càng lớn mạnh. Sự kết nối này càng lớn, thì giá cả trong nước lại càng có xu hướng dựa trên cơ sở thị trường.

A. Khung pháp lý

Hoạt động ngân hàng của Việt Nam được tiến hành bởi SBV, chức năng nhiệm vụ và hoạt động của ngân hàng này được quy định tại Luật về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành năm 1997. SBV không phải là một đơn vị độc lập mà là một cơ quan của chính quyền trung ương, do Quốc hội giám sát, được phép xây dựng và giám sát thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.[1]

Theo Nghị định về Kiểm soát Ngoại hối năm 1998, chính quyền trung ương thực hiện thống nhất việc quản lý nhà nước đối với ngoại hối ("FOREX") và các hoạt động ngoại hối.[2] SBV thiết lập tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam, như được mô tả dưới đây, qua đó xây dựng một thị trường do Nhà nước điều tiết. Theo quy định của pháp luật, SBV cũng được phép bơm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi sự lưu thông tùy theo các dấu hiệu của thị trường, và được sử dụng các công cụ tái cấp vốn, mức lãi suất, tỷ giá hối đoái, yêu cầu dự trữ, các hoạt động thị trường mở, và các công cụ khác do chính quyền trung ương quyết định.[3]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Ðồng tiền của Việt Nam chưa hoàn toàn có khả năng chuyển đổi đối với các giao dịch thương mại cũng như đầu tư. Mặc dù thị trường (tiền tệ) liên ngân hàng đã hoạt động từ năm 1994, Chính phủ vẫn duy trì kiểm soát đáng kể đối với thị trường này.

Khả năng chuyển đổi của các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn

Như được ghi nhận ở trên, tiền đồng vẫn chưa hoàn toàn có khả năng chuyển đổi đối với các giao dịch tài khoản vãng lai, đó là các giao dịch thương mại, chuyển thu nhập và lợi nhuận. Do vậy, Việt Nam vẫn chưa tuân thủ các nghĩa vụ của Ðiều VIII của IMF, trong đó yêu cầu khả năng chuyển đổi hoàn toàn đối với tài khoản vãng lai, điều mà tất cả các nước gần đây được công nhận có nền kinh tế thị trường đã thực hiện xong.

Các hạn chế về ngoại hối được thể hiện qua sự kiểm soát chặt chẽ và can thiệp tùy ý của Chính phủ. Bất kỳ đơn vị nào chuyển đổi tiền đồng đều phải khai báo nguồn gốc đồng tiền và cung cấp khá nhiều giấy tờ để chứng minh lý do việc mua ngoại tệ.[4] Ngoại tệ chỉ có thể được mua tại những ngân hàng được phép bán, và việc tiếp cận ngoại hối phụ thuộc vào khả năng của cung cấp ngoại hối đó của ngân hàng, trừ khi đơn vị mua là một doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có tên trên danh sách ưu tiên do Chính phủ chỉ định.[5]

Tiền đồng trên thực tế không có khả năng chuyển đổi đối với các giao dịch tài khoản vốn, tức là các giao dịch liên quan đến các hoạt động cho vay và đầu tư quốc tế. Có những sự kiểm soát đáng kể đối với tất cả các giao dịch về vốn, trái phiếu, các công cụ thị trường tiền tệ, và chứng khoán đầu tư. [6]

Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái chính thức cho tiền đồng do Chính phủ xác định hàng ngày trên cơ sở mức báo giá trung bình trên thị trường liên ngân hàng vào ngày hôm trước. Mức giá bị hạn chế trong một biên độ hẹp là 0,25% của tỷ giá chính thức của ngày giao dịch trước đó.[7] Do có giới hạn này đối với giá chào mua, và do phí tham gia cao, nên thị trường liên ngân hàng rất ít hoạt động và đôi khi hoàn toàn ngưng trệ, điều này làm giảm độ tin cậy về tính thị trường của tỷ giá hàng ngày.[8] Khả năng chuyển đổi của tiền đồng vì vậy bị hạn chế do sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường ngoại hối, dẫn tới một chế độ tỷ giá hối đoái bị kiểm soát chặt chẽ. Việc quản lý ngoại hối của Việt Nam là để tránh cho tiền đồng khỏi bị trượt giá quá nhanh, như hiện tượng mà các nước láng giềng của Việt Nam đã trải qua trong cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997. Kết quả là một tỷ giá không có khả năng thích ứng với các tác động của cung cầu.

Các xu hướng trong chính sách ngoại hối

Việc sử dụng đồng đô-la Mỹ ngày càng tăng trong các giao dịch thương mại hoặc để tiết kiệm, tức là hiện tượng đô-la hóa, có vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ và ngoại hối của Việt Nam.[9] Ðô-la hóa có xu hướng làm giảm giá trị tiền đồng, và làm phức tạp việc thực hiện chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái của Chính phủ. Ðể hạn chế ảnh hưởng của hiện tượng đô-la hóa, Chính phủ đã thực hiện yêu cầu kết hối ngoại tệ, theo đó tất cả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải chuyển đổi 30% thu nhập ngoại tệ của họ ngay khi nhận được sang tiền đồng.[10] Tuy nhiên, việc kiểm soát tương tự cũng thường được thực hiện trong nhiều nền kinh tế thị trường.

Năm 2001, Chính phủ mở rộng khả năng chuyển đổi tài khoản vãng lai đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bằng việc mở rộng số lượng giao dịch được phép.[11] Yêu cầu kết hối ngoại tệ đã được giảm từ 80% xuống 30% trong ba năm qua.[12] Chính phủ hy vọng sẽ thực hiện được toàn bộ các yêu cầu để tuân thủ các nghĩa vụ theo Ðiều VIII vào cuối năm 2002 thông qua việc xoá bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (hiện đang được xem xét sau các loại thuế doanh nghiệp), và xóa bỏ các hạn chế về cung ứng ngoại hối cho một số mặt hàng nhập khẩu, và chính thức công nhận các nghĩa vụ theo Ðiều khoản VIII vào cuối năm 2003.[13] Ngoài ra, Chính phủ đã có những bước tiến bộ trên thị trường ngoại hối bằng việc cho phép tiền đồng giảm giá 2% trong thời gian tháng 5 - tháng 6/2001, và gần đây mở rộng biên độ giảm giá tối đa từ 0,1% lên 0,25%.[14]

Ðánh giá yếu tố thứ nhất

Mức độ khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam còn kém xa so với tất cả các nước gần đây được công nhận là có nền kinh tế thị trường. Cho dù đã đạt được những tiến bộ tích cực về khả năng chuyển đổi của đồng tiền, thể hiện bước tiến dần tới tự do hóa, nhưng nhìn chung, chế độ ngoại hối vẫn được bảo hộ trước các tác động thị trường khách quan. Chính sách tiền tệ hiện nay của Việt Nam không đáp ứng các yêu cầu cần thiết của tỷ giá hối đoái trên cơ sở thị trường. Tiền đồng chưa hoàn toàn có khả năng chuyển đổi đối với các giao dịch tài khoản vãng lai và tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái vẫn còn bị chính phủ ấn định một cách hữu hiệu.

Yếu tố thứ hai: Mức độ mà tiền lương tại quốc gia nước ngoài được xác định bởi sự mặc cả tự do giữa người lao động và nhà quản lý lao động

Yếu tố này tập trung vào cách thức mà tiền lương được xác định, bởi vì tiền lương là một thành phần quan trọng trong chi phí và giá cả của một nhà sản xuất, và do đó, là một chỉ số quan trọng của cách thức tổng thể để xác định giá cả và chi phí trong nền kinh tế của một quốc gia. Việc dùng cụm từ "mặc cả tự do giữa người lao động và nhà quản lý lao động" thể hiện sự quan tâm đến mức độ mà tiền lương được xác định trên cơ sở thị trường, ví dụ như quan tâm đến sự tồn tại của một thị trường lao động mà ở đó người lao động và người sử dụng lao động được tự do mặc cả về các điều khoản và điều kiện của việc thuê lao động.

A. Khung pháp lý

Việt Nam có một số luật quy định các quyền, nghĩa vụ, và các sự bảo đảm của người lao động và người sử dụng lao động, vừa tạo nên cơ sở cho việc mặc cả tự do về tiền lương, lại vừa tạo nên các điều khoản và điều kiện khác của việc sử dụng lao động.

Theo Bộ luật Lao động năm 1994 và các nghị định tiếp theo đó, Chính phủ duy trì mức lương tối thiểu mà cho đến nay được ấn định là 180.000 đồng (11,87 đô-la Mỹ) một tháng đối với các doanh nghiệp trong nước, và từ 487.000 đồng đến 626.000 đồng (từ 32,12 - 41,29 đô-la Mỹ) đối với các FIE tùy thuộc vào khu vực địa lý.[15] Theo Ðiều 56 và 57 của Bộ luật Lao động, Chính phủ cũng duy trì một thang lương trên cơ sở mức lương tối thiểu, thang lương này dao động theo ngành nghề, địa phương, lĩnh vực, và trình độ tay nghề. Theo lời văn của Bộ luật Lao động, thang lương này áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, một nghị định năm 1994 của Chính phủ về việc thực thi Bộ luật Lao động đã cụ thể hóa các trường hợp mà thang lương được áp dụng. Theo nghị định này, Nhà nước quy định mức lương và thang lương đối với các SOE và giữ quyền ấn định thang lương trong các FIE.[16] Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được tự do ấn định tiền lương, miễn rằng bảo đảm tuân thủ quy định về mức lương tối thiểu. Một thông tư năm 1999 tiếp tục giảm thiểu sự kiểm soát này của Nhà nước bằng việc cho phép các FIE xây dựng thang lương của mình, nhưng phải bảo đảm tuân theo cơ cấu chung giống như của thang lương trong các SOE. Thông tư này quy định thêm rằng FIE được tự do ấn định tiền lương cao hơn mức yêu cầu đối với SOE.[17]

Các sửa đổi bổ sung mới đây của Bộ luật Lao động năm 1994, được thông qua vào năm 2002 và sẽ bắt đầu có hiệu lực vào tháng 1 năm 2003, loại bỏ mọi hạn chế còn lại đối với các doanh nghiệp tư nhân trong nước và các FIE trong việc ấn định tiền lương cao hơn mức lương tối thiểu cơ bản.[18] Tuy nhiên, đối với SOEs, thang lương bắt buộc vẫn do Chính phủ quy định.[19]

Quyền tiến hành thoả ước lao động tập thể được thiết lập bởi Chương 5 của Bộ luật Lao động, theo đó các thỏa ước tập thể có hiệu lực pháp lý như các thỏa ước riêng lẻ, và được đàm phán giữa lãnh đạo công đoàn và người thuê lao động. Người làm công có quyền tìm việc làm tại "bất kỳ nơi nào không bị pháp luật cấm" - một phạm trù không được làm rõ.[20]

Người làm thuê được quyền tự do nghỉ việc theo quyết định của bản thân. Nói chung, người sử dụng lao động có thể kết thúc các hợp đồng thuê lao động, với điều kiện phải bồi thường do việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Thêm vào đó, người sử dụng lao động phải tham vấn với công đoàn khi chấm dứt hợp đồng vì các lý do không hoàn thành công việc.[21]

Tất cả các doanh nghiệp đều phải thành lập công đoàn địa phương được tổ chức dưới Tổng Liên đoàn Lao động - một tổ chức thuộc Chính phủ.[22] Nơi không có công đoàn, Liên đoàn lao động phải thành lập một tổ chức công đoàn lâm thời. Tất cả các tổ chức công đoàn đều được thành lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam và được Nhà nước cấp một phần kinh phí. Người lao động cũng có thể thành lập hoặc gia nhập các tổ chức công đoàn trong nước hoặc quốc tế, những tổ chức này sau đó phải được thừa nhận là có tư cách pháp nhân.[23] Quyền đình công được pháp luật bảo hộ, tuy nhiên không được phép đình công trong một số lĩnh vực “trọng yếu” do Tòa án Nhân dân quy định.[24]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Việc xác lập tiền lương

Lương có xu hướng dao động khác nhau giữa các vùng và các ngành.[25] Nhìn chung, người lao động Việt Nam được trả lương rất thấp và thường phải kiếm thêm bằng cách kinh doanh ở gia đình hoặc làm nghề phụ.

Mặc dù có sự khác biệt lớn giữa mức lương tối thiểu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân, dường như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang trả lương ở mức xấp xỉ hoặc hơi cao so với mức lương trung bình ở Việt Nam và cạnh tranh với mức lương do khu vực kinh tế tư nhân trong nước đưa ra.[26] Vì vậy, hệ thống lương trước khi có việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động gần đây không nhất thiết cản trở thị trường lao động tư nhân trong nước, và những sửa đổi, bổ sung đó phản ánh những động lực đang hiện hữu trong thị trường lao động.

Trong các SOE, bao gồm cả những doanh nghiệp không thuộc lĩnh vực quản lý hành chính và vì vậy được coi là phải tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi của mình, Chính phủ có quyền kiểm soát về mặt pháp lý đối với việc đặt ra thang lương cơ bản đối với mọi loại lao động.[27] Sau đó các SOE được tự do tăng các mức lương thực tế lên tối đa là cao hơn 50% so với mức lương tối thiểu trong nền kinh tế. Sự khác biệt trong mức lương ở các SOE khác nhau cho thấy một nhân tố quan trọng quyết định mức lương thực tế ở các SOE là mức lợi nhuận được báo cáo của các doanh nghiệp này.[28]

ý nghĩa của bất cứ sự can thiệp nào của Chính phủ vào thị trường lao động - tiền lương bị giới hạn bởi việc 85 - 90% hoặc thậm chí một bộ phận nhiều hơn nữa lực lượng lao động đang hoạt động là những người kinh doanh độc lập và không chịu bất cứ sự quản lý tiền lương nào của Chính phủ, trong số đó hơn 60% làm nông nghiệp. Vì vậy lực lượng lao động được trả lương chỉ chiếm khoảng 15%-20% tổng số lao động.[29]

Sự di chuyển và tuyển dụng lao động

Sự di chuyển lao động ở Việt Nam đã tăng lên đáng kể, phần nhiều là do lao động ở nông thôn chuyển về thành phố một cách không chính thức và theo mùa vụ.[30] Ðây là một xu hướng điển hình ở các nước đang phát triển nơi có sự khác biệt về thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Mặc dù, chưa có một hệ thống bảo hiểm xã hội chung cho phép chuyển lương hưu, dòng lao động chuyển từ khu vực kinh tế Nhà nước sang khu vực kinh tế phi Nhà nước đã tăng lên, do bị thu hút bởi mức lương cao hơn và cơ hội lớn hơn ở khu vực kinh tế tư nhân.[31] Trong Bộ luật Lao động không có quy định nào trực tiếp hạn chế việc di chuyển lao động giữa các vùng và các ngành.[32]

Theo luật pháp hiện hành, một người sử dụng lao động Việt Nam có thể trực tiếp thuê lao động hoặc đăng ký tại một cơ quan (tuyển dụng) lao động của Nhà nước. Cho đến gần đây, pháp luật quy định rằng tất cả những người nước ngoài muốn sử dụng lao động đều phải tuyển dụng thông qua các cơ quan (tuyển dụng) lao động nói trên.[33] Tuy nhiên, quy định này đã được bãi bỏ đối với các công ty liên doanh với nước ngoài, các công ty 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp hoạt động theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và các chi nhánh được cấp phép của các công ty nước ngoài.[34] Các phái đoàn ngoại giao và văn phòng đại diện của các công ty nước ngoài vẫn phải tuyển người thông qua các cơ quan (tuyển dụng) lao động theo quy định của pháp luật. Nếu trong vòng 15 ngày, sở lao động không thể tìm ra một đối tượng thích hợp, thì nhà tuyển dụng có thể tuyển dụng trực tiếp.[35]

Các tổ chức công đoàn và quyền đình công

Hiện nay có khoảng hơn 45.000 tổ chức công đoàn ở Việt Nam, chiếm khoảng 90 đến 95% tổng số nhân công được trả lương.[36] Mặc dù đúng là ở Việt Nam không có quyền tự do lập hội theo cách hiểu của phương Tây (không có những hiệp hội độc lập với Nhà nước), nhưng quan điểm về quyền của người lao động ở Việt Nam được dựa trên một hệ thống hòa giải và “pháp luật ủng hộ những nhu cầu của người lao động”.[37]

Số các cuộc đình công ở Việt Nam đang tăng lên.[38] Trong nửa đầu năm 2001 đã có 30 cuộc đình công, tăng 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Khoảng 20 cuộc đình công trong số đó xảy ra ở các FIE, thường thì liên quan đến các vấn đề về tiền lương và an toàn nhà xưởng. Mặc dù phần lớn các cuộc đình công không được tiến hành theo đúng các thủ tục pháp lý, nhưng Chính phủ đều bỏ qua và không có hiện tượng những người tham gia đình công bị trừng phạt.[39]

Ðánh giá yếu tố thứ hai

Chính phủ duy trì một sự kiểm soát về mặt pháp lý đối với một số mức lương; điều này có thể ảnh hưởng đến việc tự do thỏa thuận giữa nhà tuyển dụng và người lao động, rút cục ảnh hưởng đến việc tạo thành giá cả. Tuy nhiên, trong một mức độ nhất định, sự kiểm soát về mặt pháp lý không được thực thi nhất quán, do đó, trên thực tế, một thị trường lao động tự do đã phát triển. Sự kiểm soát về mặt pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân sẽ giảm bớt với việc thực thi Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động năm 2002, dự kiến bắt đầu có hiệu lực vào tháng 1 năm 2003. Các FIE và khu vực kinh tế tư nhân trong nước cạnh tranh với nhau để thu hút lao động, điều này được phản ánh qua các mức lương được nâng lên. Các quyền của người lao động của được bảo hộ, bao gồm cả quyền đình công.

Yếu tố thứ ba. Mức độ các liên doanh hoặc các hình thức đầu tư của các nước khác được cho phép tại quốc gia nước ngoài

Việc mở cửa nền kinh tế để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng đặt ngành công nghiệp trong nước đối mặt với sự cạnh tranh từ các nhà cung cấp nước ngoài hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, bao gồm cả các tập quán quản lý, sản xuất và kinh doanh của họ. Việc này cũng có xu hướng hạn chế phạm vi và mức độ kiểm soát của Chính phủ đối với thị trường, bởi vì, theo quy luật thông thường, các nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi một mức độ độc lập nhất định trong việc quản lý các khoản đầu tư của họ.

A. Khung pháp lý

Luật Ðầu tư Nước ngoài năm 1996, được sửa đổi năm 2000, cùng với một số quy định khác, là cơ sở cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (“FDI”) ở Việt Nam. Các văn bản nói trên quy định thủ tục đăng ký thành lập một FIE ở Việt Nam, coi nhà đầu tư nước ngoài là một pháp nhân, bảo hộ nhà đầu tư trước những thay đổi bất lợi trong chế độ pháp luật trong tương lai, bảo đảm quyền sở hữu vốn đầu tư trước việc quốc hữu hóa, và quy định việc bồi thường trong trường hợp vốn đầu tư bị quốc hữu hóa. Nhiều hình thức đầu tư nước ngoài được phép hoạt động, từ hợp đồng hợp tác kinh doanh với các công ty Việt Nam, đến liên doanh, và các công ty 100% vốn nước ngoài. Người nước ngoài có quyền tự do chuyển lợi nhuận (ra nước ngoài) (phải chịu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài) và đem vốn đầu tư về nước.[40]

Luật Khuyến khích Ðầu tư trong nước thừa nhận các quyền sở hữu tư nhân, đảm bảo việc không quốc hữu hóa, và cam kết phân bổ quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích đầu tư.[41] Cả hai luật trên đều quy định rất nhiều ưu đãi thuế đối với FDI, đặc biệt là đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu và công nghệ cao, vào xây dựng cơ sở hạ tầng, cũng như vào những vùng khó khăn.[42]

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam có quyền xét xử các tranh chấp kinh tế có nhân tố nước ngoài.[43] Hiện nay, tất cả các trọng tài viên tại Trung tâm này đều là người Việt Nam.[44] Việt Nam cũng công nhận các quyết định của trọng tài nước ngoài.[45] Theo Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam đang dự thảo một điều luật đảm bảo tính trung lập của các thủ tục trọng tài quốc tế.[46]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Phát triển kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

FDI tính theo đầu người ở Việt Nam năm 2001 là khoảng 28 đô-la Mỹ, trong khi đó ở Trung và Ðông Âu, con số này cao hơn nhiều, thường lên đến hàng trăm đô-la, thậm chí, trong nhiều trường hợp lên đến hàng ngàn đô-la.[47] Tuy nhiên, một sự so sánh giản đơn mức FDI theo đầu người sẽ bỏ qua những khác biệt quan trọng về trình độ phát triển kinh tế. Dù gần đây đã có sự tăng trưởng ổn định, Việt Nam vẫn là một nước nghèo với 80 - 90% lực lượng lao động hoạt động trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp là nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình và công nghiệp nhẹ, chiếm khoảng một phần ba GDP.[48] Các cơ hội đầu tư bị hạn chế bởi một thị trường tiêu dùng chưa phát triển. Dòng vốn FDI vì thế cũng bị hạn chế. Tuy nhiên, lượng vốn FDI hiện nay có một tác động kinh tế tương đối rộng nếu xét từ góc độ tổng sản phẩm quốc nội GDP. Các FIE hiện chiếm 12% GDP và một phần ba sản lượng công nghiệp, nhưng lại chỉ chiếm có 1%-3% lực lượng lao động.[49]

Vì thế, điều quan trọng là nhìn xa hơn dòng vốn FDI hiện tại, thay vào đó, cần đánh giá sự rộng mở của Việt Nam đối với FDI thể hiện ở quy định của Chính phủ về các nhà đầu tư nước ngoài, sự lựa chọn các phương tiện đầu tư và các lĩnh vực được phép đầu tư. Hơn nữa, cũng cần xác định ảnh hưởng của FDI đối với toàn bộ giá cả và chi phí ở Việt Nam.

Các dòng vốn FDI

Sau khi tăng trưởng ổn định trong khoảng 10 năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã giảm mạnh trong giai đoạn từ 1998 - 2000. Sự suy giảm của thị trường thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 đã làm giảm các cơ hội đầu tư ở Việt Nam, và khiến các ngành vốn thu hút nhiều FDI, ví dụ như công nghiệp nặng, kinh doanh bất động sản và xây dựng, trở nên bão hòa.[50] Mặc dù gần đây, FDI đã tăng trở lại, do một phần nhờ vào những cải cách nhằm mở cửa để thu hút nhiều đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hơn nữa, nhưng Chính phủ vẫn tiếp tục định hướng và kiểm soát FDI theo cách phù hợp với những chính sách phát triển các SOE của mình. Nhìn chung, các FIE phải đối mặt với nhiều chính sách của Chính phủ ưu tiên các công ty trong nước về các vấn đề quyền sử dụng đất, quyền tiếp cận với các nguồn tài chính, cơ cấu kinh doanh và gần đây là nguồn ngoại hối. Giá cả các dịch vụ viễn thông, giá cho thuê đất, phí quảng cáo và các dịch vụ công cộng đối với các FIE cũng cao hơn do chế độ hai giá.

Chính phủ vẫn duy trì quyền kiểm soát đối với việc xác định giới hạn quyền sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài trong nhiều ngành công nghiệp và nhiều hình thức công ty.[51] Trong nhiều trường hợp, Chính phủ đặt ra những mức sở hữu nước ngoài cụ thể được cho phép.[52] Tuy nhiên, những quyết định mới đây của Chính phủ đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua đến 30% cổ phần của một công ty cổ phần và các công ty nhà nước mới cổ phần hóa trong nhiều lĩnh vực khác nhau.[53] Vì quyền sở hữu nước ngoài bị giới hạn ở một tỷ lệ cổ phần thiểu số, nên tác dụng thực tế của những thay đổi pháp lý này là cho phép các đối tác trong nước duy trì quyền kiểm soát công ty trong khi vẫn đem lại lợi ích cho việc hùn vốn và hoan nghênh các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực mới.

Các yêu cầu cấp phép là một hình thức kiểm soát khác đối với FDI. Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, địa điểm đầu tư, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, và theo các kế hoạch phát triển của Chính phủ, mà việc xin được giấy phép có thể chỉ cần một thủ tục đăng ký đơn giản hoặc là cả một dự án thẩm định cấp bộ. Thủ tục đăng ký đơn giản được áp dụng đối với các dự án đầu tư vào những khu công nghiệp đặc biệt, hoặc những ngành thuần túy phục vụ xuất khẩu, và được áp dụng đối với mọi hình thức đầu tư, giấy phép sẽ được cấp trong vòng 15 ngày. Việc cấp phép cho các FIE trong một số dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên, xi-măng, hóa chất, các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin liên lạc, bảo hiểm và tài chính cần có sự chấp thuận của Thủ tướng hoặc Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, đây là một trở ngại lớn khó có thể vượt qua.[54]

Các xu hướng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài

Trước đây, hai phần ba FDI tập trung vào các liên doanh với các SOE, phần lớn hoạt động trong các lĩnh vực thay thế nhập khẩu và đòi hỏi nhiều vốn mà các nhà sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu, ví dụ như dầu mỏ, công nghiệp nặng, giao thông vận tải.[55] Ðiều này phản ánh sự bảo hộ đối với những lĩnh vực nói trên bằng cách hạn chế nhập khẩu, tạo ra những nhà độc quyền trong nước, bao gồm cả đầu tư nước ngoài.[56] Mặc dầu vậy, nhiều thị trường này đã bão hòa, và những sửa đổi trong Luật Ðầu tư Nước ngoài và các quy định về xuất nhập khẩu, chẳng hạn như việc giảm các hạn chế định lượng và hạn chế xuất khẩu, đã chuyển hướng FDI sang những công ty hướng về xuất khẩu.[57]

Ngoài ra, một số nhà đầu tư nước ngoài đã gặp phải những khó khăn về quản lý và hoạt động trong các liên doanh.[58] Kết quả là, cùng với việc các nhà đầu tư dần làm quen với các quy định của Việt Nam, các công ty 100% vốn nước ngoài đã trở nên phổ biến hơn trong những lĩnh vực mà hình thức sở hữu này được cho phép. Gần đây, Chính phủ đã có thiện chí hơn trong việc chấp thuận các công ty 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam, ít nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu và những lĩnh vực nhằm thực hiện các dự án nêu trong chương trình phát triển của Chính phủ.[59]

Ðầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 800 triệu đô-la Mỹ năm 2000 lên 1 tỷ đô-la Mỹ năm 2001, dự tính năm 2002 đạt 1,2 tỷ đô-la.[60] Việc các nhà đầu tư nước ngoài lại quan tâm đến Việt Nam, dù còn ở mức thấp, có thể là kết quả của những nỗ lực gần đây của Chính phủ tạo cơ hội cho các FIE như đối với các công ty trong nước. Những nghị quyết được thông qua vào tháng 8 năm 2001 đã đẩy nhanh việc xóa bỏ chế độ hai giá, đặc biệt là trong bảng giá điện và dịch vụ viễn thông, và Chính phủ đã tuyên bố cam kết của mình sẽ loại bỏ tất cả các sự phân biệt về giá cả.[61] Chính phủ cũng đang trong quá trình thống nhất giá thuê đất, hiện nay giá thuê đất đối với các công ty trong nước thấp hơn 40% so với các FIE.[62] Những hạn chế về lao động đối với các FIE cũng sẽ được nới lỏng thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động năm 2002, theo đó người nước ngoài sẽ xin được giấy phép làm việc dễ dàng hơn và các FIE sẽ được trực tiếp tuyển dụng lao động địa phương.[63]

Việt Nam cũng đưa ra những biện pháp khuyến khích đầu tư dưới dạng miễn giảm thuế, hay áp dụng thuế thu nhập ưu đãi đối với các công ty. Những biện pháp này vừa nhằm khuyến khích FDI nói chung, vừa nhằm thu hút vốn đầu tư vào một số vùng và ngành nhất định của đất nước.[64]

Những sửa đổi mới đây trong Luật Ðầu tư Nước ngoài và các quy định khác đã góp phần tăng thêm lòng tin của các nhà đầu tư. Giờ đây, người nước ngoài đã có thể thế chấp quyền sử dụng đất của mình, điều này cho phép các FIE vay tiền từ các ngân hàng nước ngoài và sử dụng lợi nhuận thu được từ đất để làm tài sản đảm bảo.[65] Các bước tiến tích cực khác bao gồm việc giảm thuế chuyển lợi nhuận - tạo điều kiện cho các FIE mở tài khoản ở các ngân hàng hải ngoại, giảm bớt các hạn chế đối với tài khoản vãng lai trong việc sử dụng ngoại hối, tăng số lượng các ưu đãi về thuế, và giảm bớt khả năng các đối tác trong nước gây trở ngại cho hoạt động của các công ty liên doanh.[66]

Chính phủ đã tiến hành những biện pháp tích cực, quan trọng nhằm dỡ bỏ các trở ngại về mặt pháp lý đối với đầu tư và mới đây đã đề xuất việc giảm bớt các thủ tục cấp phép (ví dụ, chuyển từ trình tự thẩm định sang trình tự đăng ký) đối với 16 loại giấy phép kinh doanh trong các lĩnh vực vận tải, thương mại, y tế, viễn thông, công nghiệp, môi trường, và văn hóa.[67]

Ðánh giá yếu tố thứ ba

Việt Nam mong muốn và có khả năng tiếp nhận FDI, và đã sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích (chủ yếu là các lợi ích về thuế) để thu hút FDI. Tuy nhiên, cùng lúc đó, Chính phủ Việt Nam lại tìm cách điều hành và định hướng FDI với tư cách một bộ phận trong kế hoạch tổng thể của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, trong kế hoạch đó các SOE có vai trò chủ đạo.

Do cơ hội kinh doanh trong các ngành công nghiệp nặng giảm đi, Chính phủ đã khuyến khích dòng FDI đổ vào các ngành định hướng xuất khẩu, những ngành có tiềm năng lớn về tạo ra công ăn việc làm. Chính phủ cũng đang dần thừa nhận các lực lượng thị trường, ví dụ như việc Chính phủ đã dỡ bỏ các hạn chế đối với công ty 100% vốn nước ngoài do nhu cầu của các nhà đầu tư muốn độc lập hơn trong việc điều hành hoạt động của công ty.

Mặc dù Việt Nam mở cửa thu hút đầu tư và coi đó là một nhân tố trọng yếu thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng khung pháp lý của Việt Nam không thể hiện rõ mong muốn để cho luồng FDI chảy khắp nền kinh tế. Các thủ tục về đăng ký và cấp phép, cũng như những hạn chế về việc lựa chọn hình thức đầu tư là những phương tiện chính để định hướng dòng FDI và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của Chính phủ.

Yếu tố thứ tư. Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất chủ yếu

Quyền sở hữu tài sản tư nhân là nền tảng cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường, và phạm vi và mức độ can dự của khu vực tư nhân vào nền kinh tế thường thể hiện mức độ vận hành theo cơ chế thị trường của nền kinh tế đó.

Ðối với Việt Nam, hai thành phần chủ yếu của nhân tố thứ tư này là (1) mức độ và tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp, và (2) việc không có quyền sở hữu đất tư nhân và vai trò của quyền sử dụng đất trong nền kinh tế Việt Nam.

1. Mức độ và tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp

A. Khung pháp lý

Theo Nghị định năm 1998 về cổ phần hóa, bất cứ SOE) “dân sự” nào cũng có thể được cổ phần hóa.[68] Trong đó, các tổ chức được mua đến 20% cổ phần, các cá nhân được mua đến 10%, và tổng số đầu tư nước ngoài không vượt quá 30%. Nhà nước sẽ tiếp tục nắm giữ lượng cổ phần áp đảo trong các ngành công nghiệp "chiến lược", các ngành này vượt ra ngoài các ngành độc quyền tự nhiên.[69]

Mãi đến gần đây, quá trình cổ phần hóa các SOE vẫn diễn ra với tốc độ rất chậm do khoản nợ lớn của các doanh nghiệp này, do quy định yêu cầu các công ty sau cổ phần hóa phải giữ lại những công nhân dư thừa, cũng như do các yêu cầu cổ phần hóa nặng nề khác. Sự tham gia của nhân tố nước ngoài vào quá trình cải cách bị bó hẹp trong một số lĩnh vực hướng về xuất khẩu và quyền sở hữu của họ bị hạn chế ở mức tối thiểu.[70] Quyết định cổ phần hóa vẫn còn mang tính tùy chọn cho mỗi SOE, và chưa phải là kết quả của việc chính quyền trung ương lựa chọn các ứng cử viên một cách chiến lược hoặc trực tiếp tiến hành tái cơ cấu. Kết quả là sự chống lại quá trình cổ phần hóa của các giám đốc và sự hoài nghi của các nhà hoạch định chính sách đã làm chậm thêm tiến trình này.[71]

Tháng 6 năm 2002, Chính phủ đã thông qua luật mới thay thế các văn bản pháp luật năm 1998, tiếp thêm sức sống cho quá trình cổ phần hóa. Không còn các hạn chế về số lượng các cổ phiếu mà công dân Việt nam có thể mua tại các công ty được cổ phần hóa.[72] 30% cổ phần phải được dành riêng cho công chúng, sở hữu nước ngoài vẫn hạn chế ở mức 30%.[73] 10% cổ phần được phép bán cho công nhân viên và các nhà cung cấp với mức chiết khấu 30%. [74] Các công ty mới cổ phần hóa không còn bị yêu cầu giữ các công nhân dư thừa.

Chính phủ cũng đã tiến hành các bước thiết lập một chưong trình tái cơ cấu các SOE hoạt động không hiệu quả. Nghị định số 69 ban hành tháng 7 năm 2002 giải quyết các khoản nợ khó đòi của các SOE - một trong những trở lực chủ yếu trong tiến trình cổ phần hóa tại Việt Nam.[75] Nghị định này cho phép các khoản nợ không thể thu hồi của SOE được khấu trừ vào phần sở hữu của Nhà nước trong doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp này trở thành ứng cử viên hấp dẫn hơn cho cổ phần hóa. Các công ty với khoản nợ rất lớn vượt số vốn của mình hoặc có thể được Nhà nước tái cấp vốn hoặc giải thể tuỳ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Với các công ty có số vốn dưới 5 tỷ đồng mà Nhà nước không muốn giữ phần vốn của mình và Nhà nước không thể tiến hành cổ phần hóa được, thì sửa đổi mới cho phép hoặc chuyển công ty đó thành hợp tác xã lao động, hoặc bán toàn bộ công ty đang khó khăn trầm trọng do nợ, hoặc khoán hay cho thuê công ty sang người quản lý mới.[76]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Sau khi thông qua các Nghị định năm 1998 phác họa quá trình cổ phần hóa, đã có 450 công ty được cổ phần hóa cho tới năm 2000. Một nửa trong số các công ty này đã tiến hành bán tới hơn 65% số cổ phần của họ.[77] Tiếp sau đó, Chính phủ đã tái khẳng định cam kết của mình cải cách các SOE theo một kế hoạch năm 2001, bao gồm mục tiêu cổ phần hóa hoặc bán đi thêm 2.300 doanh nghiệp trong vòng năm năm. Nếu kế hoạch này được thực thi đầy đủ, phạm vi ảnh hưởng sẽ bao trùm một phần ba số SOE và một phần tư số lao động trong các SOE.[78] Tuy nhiên, mục tiêu thực hiện hàng năm lại không được hiện thực hóa; 400-500 doanh nghiệp nằm trong kế hoạch bán năm 2001 nhưng chỉ có chưa đầy 200 doanh nghiệp được cổ phần hóa.[79] Trong số 6.000 SOE đang tồn tại năm 2000, chỉ có 780 doanh nghiệp được cổ phần hóa vào tháng 6 năm 2002, và chỉ chiếm 2,5% về tổng vốn.[80] Như vậy, tốc độ cải cách chậm, và chương trình cải cách tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ nhất, được cấp vốn ít nhất.

Cho dù có một số minh chứng cho thấy sự tăng tốc trong tiến trình cải cách trong năm 2002, nhưng vẫn còn quá sớm để đánh giá hiệu quả của kế hoạch năm năm. [81] Cho dù các mục tiêu đề ra của chương trình là rất tham vọng, các SOE quy mô hơn và nhiều vốn hơn, chiếm khoảng 90% tổng số nợ của các SOE, phần lớn sẽ không bị đụng chạm bởi chương trình cải cách. [82] Chính phủ có kế hoạch giữ lại quyền sở hữu đối với trên 700 công ty, vốn là những SOE lớn nhất, cũng như nắm quyền sở hữu chủ yếu với khoảng 2000 công ty khác.[83]

Với phần đóng góp của khu vực nhà nước trong nền kinh tế chiếm khoảng 40% GDP, các SOE đóng một vai trò nổi bật trong nền kinh tế Việt Nam. Trong thực tế, Chính phủ tuyên bố công khai ý định của họ duy trì vai trò chủ đạo và chủ động của các SOE, mà Chính phủ Việt Nam gọi là "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.[84]

Dù vậy, trọng tâm vào sản xuất công nghiệp và tỷ trọng của Nhà nước trong GDP không cho thấy toàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam. Từ quan điểm của người lao động, phần đông (gần 90%) dân số có làm việc và liên quan đến các doanh nghiệp tư nhân cho dù giá trị gia tăng từ sản xuất của các doanh nghiệp thấp hơn. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa khu vực tư nhân trong nước với các SOE vẫn còn rất hạn chế. Khu vực tư nhân trong nước điển hình là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, trong khi các SOE có xu hướng ở quy mô lớn hơn hoạt động trong các những ngành công nghiệp cần nhiều vốn hơn.[85] Như đã trình bày ở trên, kế hoạch cải cách vẫn đề ra viễn cảnh vai trò chủ đạo của các SOE đối với "việc duy trì sự bảo hộ và đầu tư của Nhà nước trong" những ngành công nghiệp chủ chốt mà phạm vi vượt quá các lĩnh vực độc quyền tự nhiên.[86]

Ðối lập với các khu vực kinh tế tư nhân trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tập trung vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn hơn - những lĩnh vực mà các SOE đang hoạt động và hiện chiếm tới hơn 35% sản lượng công nghiệp.[87] Nếu chỉ xét điều này, có thể thấy các SOE đang dần mở ra cạnh tranh với các yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, như đã nêu trên đây khi đề cập đến qui mô của FDI, nhiều FIE là các liên doanh với các SOE, và theo thông lệ họ chia sẻ lợi nhuận độc quyền trong những ngành công nghiệp được bảo vệ khỏi cạnh tranh từ bên ngoài. Bởi vậy, các SOE hiện hoạt động trong những ngành công nghiệp sản xuất sinh lợi chủ chốt chưa chịu tác động đầy đủ của sự cạnh tranh từ phía những doanh nghiệp tư nhân hoặc các FIE độc lập và vì vậy chưa thể đảm bảo rằng tổng thể những khu vực này hoạt động trên cơ sở thị trường.

2. Ðất đai và quyền sử dụng đất

A. Khung pháp lý

Luật đất đai năm 1993, sửa đổi năm 1998 và năm 2001, quy định hệ thống quản lý đất đai cũng như các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, đề ra các nguyên tắc quản lý đất đai ở Việt Nam. Theo Luật Ðất đai, tài nguyên đất thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý.[88] Thêm vào đó, vai trò của Nhà nước bao gồm cả việc bảo vệ đất nông nghiệp, khuyến khích đầu tư vào đất đai và tích luỹ gia tăng giá trị của đất.[89]

Trên cơ sở đó, chính quyền trung ương cần phải bảo vệ quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất, bao gồm cả giám sát việc trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế hay thế chấp quyền sử dụng đất.[90] Trong thực tế, hầu hết việc quản lý đất đai được giao cho các uỷ ban nhân dân địa phương - những cơ quan cũng có chức năng ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến sử dụng đất và phân khu đất, đăng ký và giải quyết một số tranh chấp về quyền sử dụng đất.[91]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Việt Nam không cho phép sở hữu đất đai tư nhân dưới bất kỳ hình thức nào, chỉ có các quyền sử dụng đất hạn chế. Mô hình của Việt Nam về quản lý nhà nước đối với lợi ích về quyền sử dụng đất đã ngăn cản việc tạo ra một thị trường quyền sử dụng đất tự do dựa trên khung pháp lý bảo vệ quyền lợi của các thành viên tham gia thị trường.[92]

Sự can thiệp của Nhà nước trong việc phân bổ, chuyển nhượng, sử dụng và định giá đất đai, những nhân tố sẽ lần lượt được bàn luận dưới đây, đã làm tổn hại nghiêm trọng sự phát triển của thị trường quyền sử dụng đất tự do. Các quyền về đất đai được Chính phủ phân loại theo mục đích, phân định rõ giữa đất sinh lời và đất không sinh lời. Quyền sử dụng đất cao nhất được trao cho các hộ gia đình và cá thể đối với đất không sinh lời và các quyền sử dụng đất hạn chế nhất được dùng để cho các doanh nghiệp thương mại thuê.[93]

Ba cách tiếp cận quyền sử dụng đất (sinh lợi hoặc không sinh lợi) bao gồm giao đất, cho thuê và chuyển nhượng. Ðất phục vụ mục đích làm nhà ở được giao cho, nghĩa là cấp quyền sử dụng ổn định lâu dài. Ðất phục vụ sản xuất sinh lợi được giao hoặc cho thuê theo từng giai đoạn ngắn, tùy theo vào kế hoạch sản xuất kinh doanh.[94] Khả năng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phụ thuộc vào sự xem xét của Nhà nước và phụ thuộc các loại đất, các loại chủ sở hữu và hoa lợi từ đất, điều này phủ nhận một thị trường tự do thực sự về quyền sử dụng đất.[95] Việc chuyển đổi chức năng sử dụng đất, ví dụ, từ đất làm nhà ở sang sản xuất thương mại, tuỳ thuộc chủ yếu vào sự quản lý của Chính phủ.[96]

Cho dù không được quyền sở hữu toàn phần, song đất được giao cho làm nhà ở được quyền sử dụng ổn định lâu dài để chuyển đổi, thừa kế, cho thuê hoặc thế chấp. Người sở hữu đất phải trả một khoản phí phân giao đất đai ban đầu, sau đó không phải nộp bất cứ loại phí nào khác.[97] Do vậy, chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho cư dân Việt Nam là vĩnh viễn, và trên lý thuyết có thể chuyển nhượng trong phạm vi mục đích sử dụng quy định. Mặc dù một số nhà bình luận cho rằng sự linh hoạt này cho phép hình thành một thị trường đất làm nhà ở, song những điều kiện về mặt pháp lý đối với việc cho thuê và chuyển nhượng đất đai vẫn còn rất nghiêm ngặt. Hộ gia đình và cá nhân chỉ được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi họ chuyển đến nơi khác sinh sống hoặc tiếp quản sản xuất hoặc tiếp quản các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc chuyển sang ngành nghề khác, hoặc không còn khả năng lao động. Các hộ kinh doanh có thể cho thuê quyền sử dụng đất của mình nếu gia đình trong tình trạng nghèo khổ, hoặc nếu họ chuyển nghề khác hay không còn khả năng khai thác đất.[98]

Các tổ chức thương mại, các nhà đầu tư nước ngoài và hộ gia đình đang sử dụng đất cho mục đích thương mại, mà không phải để phát triển cơ sở hạ tầng, thì được cho phép thuê đất. Thời hạn cho thuê được quyết định dựa trên kế hoạch kinh doanh thường không vượt quá 20 năm (tối đa là 50 năm).[99] Công ty phải tuyệt đối tuân thủ việc sử dụng đất đi thuê vào những mục đích được cho phép, nếu không quyền sử dụng đất sẽ tự động bị Nhà nước thu hồi. Chỉ những người thuê trong nước mới được quyền chuyển nhượng, bán hay cho thuê đất đai thuộc quyền quản lý của họ. Các nhà đầu tư nước ngoài phải thuê đất trực tiếp từ Nhà nước, chứ không được thuê lại như các công ty trong nước, quy định này đã loại các nhà đầu tư nước ngoài ra khỏi thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất.[100]

Ðánh giá yếu tố thứ tư

Các SOE tiếp tục đóng vai trò trọng yếu trong nền kinh tế Việt Nam, với tỷ lệ của khu vực nhà nước trong nền kinh tế chiếm 40% GDP và 42% sản lượng công nghiệp. Thêm vào đó, Chính phủ đã tuyên bố mục tiêu duy trì vai trò chủ đạo của các SOE. Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển mạnh sử dụng từ 85% đến 90% lực lượng lao động, nhưng cạnh tranh giữa khu vực này với khu vực kinh tế Nhà nước vẫn còn hạn chế.

Cuối cùng, quyền tự do chuyển nhượng và tiếp cận thị trường bất động sản là những nhân tố chủ chốt của sở hữu đất đai tư nhân. Ở Việt Nam, không có quyền sở hữu đất đai tư nhân và Chính phủ hiện vẫn chưa bắt đầu chương trình tư nhân hóa quyền này. Tất cả tài nguyên đất thuộc về "toàn dân" nhưng lại được quản lý bởi Nhà nước. Chính phủ cho thuê đất và trao cho các cá nhân và công ty một số quyền sử dụng đất hạn chế, còn việc chuyển nhượng và chuyển mục đích sử dụng đất hoàn toàn phụ thuộc vào việc xem xét và chấp thuận của Nhà nước.

Gộp tất cả những yếu tố trên, quyền sở hữu đất tư nhân và sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam bị hạn chế đáng kể do sự can thiệp của chính quyền.

Yếu tố thứ năm. Mức độ kiểm soát của Chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực, và đối với các quyết định về giá cả và sản lượng của các doanh nghiệp

Phân quyền các quyết định kinh tế là một tiêu chuẩn của các nền kinh tế thị trường, trong đó, tất cả các quyết định độc lập về giá cả và sản lượng, nguồn đầu vào, và đầu tư của các cá nhân và công ty phục vụ lợi ích riêng, tổng hợp lại đảm bảo rằng các nguồn lực kinh tế được phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả nhất. Giá cả trong những nền kinh tế như vậy có xu hướng phản ánh cả tình hình nhu cầu lẫn tính khan hiếm tương đối của các nguồn lực cho sản xuất.

Một thước đo quan trọng trong việc đánh giá mức độ kiểm soát của Chính phủ đối với các quyết định sản xuất và phân bổ nguồn lực là mức độ tham gia của Chính phủ trong quá trình phân bổ vốn. Nếu coi ngân hàng là các nhà cung cấp vốn quan trọng, thì việc Chính phủ tiến hành kiểm soát khu vực ngân hàng thương mại như thế nào là một yếu tố cần được xem xét.

Ðối với yếu tố này, ba vấn đề được đặt ra là: (1) phạm vi tự do hóa giá cả, (2) tình hình cải cách khu vực ngân hàng thương mại, và (3) mức độ mà cá nhân và doanh nghiệp có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh.

1. Mức độ tự do hóa giá cả

A. Khung pháp lý

Chính phủ đã hủy bỏ hầu hết những kiểm soát về giá cả vào năm 1992, chỉ trừ những lĩnh vực liên quan đến độc quyền Nhà nước, và giá cả những mặt hàng thiết yếu đối với nền kinh tế bao gồm điện, dịch vụ bưu chính và dịch vụ điện thoại. Ban Vật giá Chính phủ ("GPG") được thành lập theo một Nghị định năm 1993, hiện vẫn tiến hành định giá không chỉ những lĩnh vực thường được điều tiết trong các nền kinh tế thị trường (điện, viễn thông, nước, vận tải hàng không và đường sắt), mà còn cả những lĩnh vực như xi-măng, sắt thép, các sản phẩm công nghiệp khác và dược phẩm, mục đích chính là kiểm soát lạm phát và đảm bảo giá cả những mặt hàng cơ bản ở mức chấp nhận được với đại đa số dân chúng. [101]

Pháp lệnh về Giá năm 2002 hạn chế phạm vi định giá của Nhà nước vào những lĩnh vực đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản nhà nước, hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân, hoặc những hàng hóa dịch vụ thuộc độc quyền nhà nước. Pháp lệnh này được coi là biện pháp tạm thời ngăn chặn lạm dụng giá độc quyền cho đến khi Luật Cạnh tranh Việt Nam có hiệu lực. [102]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Hầu hết các biện pháp kiểm soát giá được loại bỏ vào cuối những năm 1980, nhưng một số vẫn còn tồn tại, ví dụ như những biện pháp kiểm soát giá điện.[103] Mục tiêu chính sách mà GPG đề ra đối với các biện pháp kiểm soát giá còn lại là điều tiết giá độc quyền và đảm bảo giá cả những hàng hóa và dịch vụ cơ bản ở mức chấp nhận được với đại đa số dân chúng. Tuy nhiên, một số mặt hàng công nghiệp như thép và xi-măng vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của GPG.

Quy chế hoạt động của GPG sẽ được xem xét trong năm 2002 với dự kiến rằng danh sách các mặt hàng bị kiểm soát giá sẽ bị thu hẹp. Một số ngành sẽ không còn chịu sự điều tiết của Nhà nước nữa, trong khi đó một số ngành khác bao gồm xi-măng, sắt thép sẽ phối hợp với đại diện chính phủ và người tiêu dùng trong việc định giá. Xu hướng tự do hóa giá cả cũng đang diễn ra trong những lĩnh vực khác. Như đã mô tả trong phần trình bày về FDI trên đây, hệ thống hai giá phân biệt đối xử đối với các FIE đã được loại bỏ dần với việc thu hẹp khoảng chênh lệch giá, đặc biệt trong bảng giá điện và viễn thông, đồng thời Chính phủ cũng đã lên tiếng cam kết loại bỏ tất cả các phân biệt về giá. [104]

Pháp lệnh năm 2002 về giá cho phép Nhà nước tiến hành điều tra và can thiệp vào các hành vi định giá độc quyền - chức năng này không được quy định trong thẩm quyền của GPG.[105] Tuy nhiên Chính phủ không quy định chi tiết cơ quan chức năng nào sẽ thực thi Pháp lệnh. Do vậy chưa thể đánh giá hiệu quả của văn bản này.

2. Tình hình cải cách khu vực ngân hàng thương mại

A. Khung pháp lý

Luật các Tổ chức Tín dụng năm 1997 quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và ngân hàng tại Việt Nam, đồng thời chỉ rõ SBV là cơ quan duy nhất tiến hành việc cấp phép cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng.[106] Cũng cần lưu ý là SBV không phải là một thể chế độc lập mà vẫn là một cơ quan của chính quyền trung ương chịu sự giám sát của Quốc hội.[107] Nghị định về các Tổ chức Tín dụng năm 1999 quy định SBV là cơ quan cấp và rút giấy phép, cũng như quản lý và điều tra các hoạt động của tất cả các loại hình tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. Tất cả các giấy phép phải được cấp phù hợp với "tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam và hiện trạng của thị trường tài chính", như quy định của chính quyền trung ương.[108]

Năm 2001, Quyết định về Tổ chức và Hoạt động của các Ngân hàng Thương mại của SBV quy định rằng các ngân hàng thương mại quốc doanh ("SOCB") chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua SBV," và thông qua các hoạt động ngân hàng của mình "phải đóng góp vào việc hiện thực hóa các mục tiêu của Nhà nước”. [109]

Nghị định năm 1999 về Chế độ Tài chính của các Tổ chức Tín dụng yêu cầu các ngân hàng tự vận hành và chịu trách nhiệm độc lập về kinh doanh của mình, các nghĩa vụ và cam kết của mình. Các tổ chức tín dụng được quyền sung quỹ, chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý và cầm cố các tài sản trên nguyên tắc "hiệu quả, an toàn và phát triển nguồn vốn”. Nghị định cũng phân biệt giữa các tổ chức tín dụng quốc doanh và tư nhân, trong đó lợi nhuận của các tổ chức tín dụng quốc doanh được phân bổ trực tiếp vào một số quỹ như quỹ phát triển kinh doanh. Phân bổ lợi nhuận của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh được quyết định bởi chính các tổ chức đó sau khi đã thỏa mãn những yêu cầu dự trữ vốn điều lệ.[110]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Năm 1998, trách nhiệm của SBV được chia ra với chức năng điều tiết quản lý khu vực ngân hàng, bao gồm bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, một số ngân hàng hợp tác, ngân hàng liên doanh, và các văn phòng đại diện, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài.[111]

Khu vực ngân hàng tại Việt Nam chưa đủ phát triển để có thể vận hành như những trung gian tài chính thật sự trong nền kinh tế thị trường. Hai vấn đề lớn là: 1) không độc lập hoàn toàn thể hiện qua việc Nhà nước kiểm soát lãi suất và cho vay tới các SOE, và 2) thiếu sự cạnh tranh hiệu quả trong lĩnh vực ngân hàng do các quy định của Nhà nước.

Kiểm soát lãi suất

Tháng 8 năm 2000, SBV đã thay thế mức trần lãi suất cho vay tiền đồng hàng tháng bằng lãi suất cho vay căn bản hàng tháng, dựa trên lãi suất mà chín ngân hàng thương mại áp dụng với các khách hàng loại AA của họ. Các ngân hàng được tự do điều chỉnh lãi suất cho vay trong biên độ ±0.3% đối với các khoản vay ngắn hạn và ±0.5% với các khoản vay dài hạn. Chính sách này nhằm đưa lãi suất cho vay gần với lãi suất thị trường hơn. Tháng 6 năm 2001, SBV bãi bỏ các kiểm soát về lãi suất cho vay tiền đồng để cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực tư nhân.[112]

Tính tới ngày 1/6/2002, các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh được phép đặt ra lãi suất cho vay của riêng mình, ngoài việc đặt ra lãi suất tiền gửi. Cho dù quy định này đánh dấu một bước nữa trong quá trình tiến tới mức lãi suất trên cơ sở thị trường, nhưng ngân hàng trung ương vẫn còn điều chỉnh lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh, chiếm khoảng 74% thị trường cho vay và từ 70% đến 80% tài sản các ngân hàng. [113]

Chính sách cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh

Mặc dù luật pháp quy định các ngân hàng thương mại có chức năng xem xét rủi ro của khách hàng vay tiềm năng, nhưng các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn tiếp tục tham gia vào chính sách cho vay và cấp phần lớn vốn cho các SOE cho dù những doanh nghiệp này không đạt được những tiêu chí về mặt thương mại.[114] Các ngân hàng quốc doanh rõ ràng đang bị suy yếu bởi các khoản cho vay theo chỉ đạo của Nhà nước theo những tiêu chí phi thương mại, và những khoản nợ tồn đọng của các SOE hiện đang là nguyên nhân chính gây lo ngại. [115]

Những ước tính chính thức cho thấy rằng 60% các SOE đang thua lỗ nhưng chỉ 60 trong tổng số 12.000 SOE ban đầu đã tuyên bố phá sản.[116] Trong khi luật mới về phá sản và cơ cấu nợ vừa được ban hành, việc quyết định xem những biện pháp này có hiệu quả như thế nào vẫn còn là quá sớm. [117]

Năm 2000, Chính phủ đã thành lập Quỹ Hỗ trợ Phát triển Quốc gia (viết tắt là NDAF) để dọn đường cho việc phân tách cho vay thương mại và cho vay chính sách. Một số những thay đổi tích cực đã được thực thi, như việc ban hành các quy định mới nhằm phân loại các khoản vay không sinh lời phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.[118] Tuy nhiên, các nhà quan sát ghi nhận rằng việc thực thi các tiêu chuẩn cho vay có hiệu quả về mặt thương mại cũng đòi hỏi có thời gian. [119] Ví dụ, Chính phủ Việt Nam tiếp tục cho phép cho vay không có cơ sở đảm bảo đối với các SOE và các FIE, trong khi các doanh nghiệp tư nhân trong nước phải đối mặt với những yêu cầu thế chấp ngặt nghèo để có được những khoản vay trung hạn.[120] Mặc dù tốc độ cấp tín dụng cho các SOE đã chậm lại đáng kể, trong khi tốc độ cấp cho các khu vực kinh tế khác tăng 27,5%, nhưng vẫn chỉ có 27% các khoản vay cấp bởi NDAF tới được với khu vực tư nhân.[121]

Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng

Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế rất nhiều trong việc tham gia vào lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam theo Luật về Các Tổ chức Tín dụng, luật này chỉ cho phép thành lập các tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài, và các chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài.[122] Các nhà đầu tư nước ngoài nhìn chung chưa được góp cổ phần vào các ngân hàng cổ phần trong nước, chỉ với một vài ngoại lệ từ năm 1995.[123]

Có hơn 30 ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, bao gồm bốn ngân hàng liên doanh và 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Mặc dù bị hạn chế về các giao dịch được phép tham gia, các ngân hàng này vẫn đem lại sự ổn định và cạnh tranh nhất định cho hệ thống ngân hàng.[124]

Có 53 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài, những văn phòng này chỉ được phép làm đại lý cho các hoạt động ngân hàng nước ngoài và không được phép thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trong nước tại Việt Nam. Các khoản vay nước ngoài mà các doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có được, đều phải tuân thủ các điều kiện và chịu sự giám sát của SBV.[125]

Các điều khoản của Hiệp định Thương mại Song phương quy định mở cửa lĩnh vực ngân hàng cho nước ngoài. Tuy nhiên, những cải cách về đối xử quốc gia này sẽ được thực thi trong thời hạn từ 8 đến 10 năm.[126]

Vào tháng 3 năm 2001, SBV chấp thuận một kế hoạch chi tiết cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh do Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới tài trợ. Kế hoạch này bao gồm các mục tiêu cơ cấu chuẩn mực thường niên cần phải hoàn thành nhằm đạt được các khoản tài trợ tái cơ cấu vốn phân theo giai đoạn từ Chính phủ. Cho tới nay bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã đáp ứng được những mục tiêu này.[127] Tuy nhiên, tương tự như các cải cách SOE được thảo luận tại mục trước, Chính phủ Việt Nam đã đề ra viễn cảnh một vai trò chủ đạo cho bốn ngân hàng quốc doanh chi phối hoạt động ngân hàng trong nước.[128]

Lĩnh vực ngân hàng chỉ chiếm một phần tư tổng tiết kiệm.[129] Phần lớn các hộ gia đình giữ tiết kiệm dưới hình thức đô-la hoặc vàng bên ngoài hệ thống ngân hàng.[130] Mặc dù không đủ để chứng tỏ là lĩnh vực ngân hàng vận hành trên cơ sở thị trường, nhưng một cơ sở tiền gửi thấp như vậy cùng với sự kiểm soát của Chính phủ theo pháp luật và trên thực tế đã ngăn cản lĩnh vực ngân hàng đóng vai trò như một trung gian tài chính thực sự. Khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực tư nhân ngày càng tăng lên, nhưng khu vực ngân hàng chính thức không đáp ứng được những nhu cầu tài chính của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đang xuất hiện ngày càng nhiều, những doanh nghiệp này đã quay sang các kênh tài trợ không chính thức như từ gia đình, bạn bè và các hợp tác xã tín dụng.[131]

3. Mức độ mà các cá nhân và doanh nghiệp có thể tham dự vào các hoạt động kinh doanh.

A. Khung pháp lý

Quyền của các cá nhân, tổ chức và hộ gia đình được tiến hành các hoạt động kinh tế được quy định bởi Luật Thương mại năm 1997. Luật này bảo vệ quyền của các doanh nghiệp tư nhân, cả trong nước và nước ngoài, được tham gia cạnh tranh, nhưng bảo lưu vai trò chủ đạo của khu vực quốc doanh.[132] Các hình thức doanh nghiệp tư nhân được cho phép tại Việt Nam được quy định trong Luật Doanh nghiệp, có hiệu lực vào tháng 1 năm 2000, và thay thế luật năm 1990.[133] Luật này quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của tất cả các doanh nghiệp tư nhân trong nước, bao gồm cả các SOE được cổ phần hóa, và cho phép việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Các công ty có quyền tìm kiếm và sử dụng các nguồn lực, lựa chọn loại hình kinh doanh và tự do tiến hành kinh doanh.[134]

Theo Luật Doanh nghiệp trước đây, các công ty tư nhân khó có thể cạnh tranh với các công ty quốc doanh. Việc đăng ký pháp lý cho một doanh nghiệp rất rắc rối và để chuyển đổi sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần phải trải qua giai đoạn phê duyệt kéo dài. Khác với các SOE, các công ty tư nhân không thể dùng quyền sử dụng đất để đóng góp cổ phần vào một liên doanh.[135] Chính phủ cũng đã tiến hành các bước hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân và năm 2001 đã sửa đổi Hiến pháp để dành cho khu vực tư nhân vị thế ngang bằng với vị thế của khu vực nhà nước.[136]

B. Tiến triển trong nền kinh tế

Khu vực tư nhân đã trở thành động lực phát triển kinh tế của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng vượt xa khu vực nhà nước.[137] Phần lớn công ăn việc làm mới được tạo ra trong khu vực tư nhân.[138] Từ năm 2000, khu vực tư nhân đã tăng trưởng đặc biệt mạnh mẽ trong lĩnh vực xuất khẩu và đã trở thành nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho Việt Nam.[139]

Mặc dù khu vực tư nhân tại Việt Nam vẫn chưa phát triển, các công ty tư nhân Việt Nam mới chỉ chiếm 8% GDP, nhưng Luật Doanh nghiệp dường như đã thúc đẩy việc đăng ký công ty tư nhân mới bằng cách tạo điều kiện cho việc đăng ký và tiến hành kinh doanh được dễ dàng hơn.[140] Theo Chính phủ Việt Nam, kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào tháng 9 năm 2002, đã có hơn 70.000 doanh nghiệp mới được đăng ký. [141] Ðiều này có nghĩa là số doanh nghiệp đăng ký từ năm 2000 đến nay nhiều hơn toàn bộ số doanh nghiệp đăng ký kể từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu năm 1986 đến trước năm 2000. Khoảng 90% các doanh nghiệp này là vừa và nhỏ, với số vốn trung bình là 250 triệu đồng (16.700 USD). [142] Chính phủ gần đây cũng ban hành một chỉ thị để giúp công dân của mình nhận thức rõ hơn về các quyền mới của họ theo Luật Doanh nghiệp, nhằm thu hút các doanh nghiệp đăng ký một cách chính thức.[143]

Những tiến bộ nói trên có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân vẫn kém lợi thế trong những vấn đề có liên quan đến tài chính, quyền sử dụng đất và tác phong quan liêu. Một cuộc điều tra tiến hành cuối năm ngoái cho thấy chỉ có 50% các công ty được điều tra nhận được tài trợ từ ngân hàng, so với mức 80% đối với các SOE.[144] Mà những công ty tìm được tài trợ thì cũng có khả năng phải chịu mức lãi suất cao hơn. Các SOE có thể kiếm được các khoản vay không cần tài sản đảm bảo, trong khi các công ty tư nhân và cổ phần hóa phải thế chấp tài sản của mình.[145] Các công ty tư nhân thấy điều này đặc biệt phiền hà, bởi nhiều công ty không có giấy tờ sở hữu đối với các tài sản vật chất của họ.[146] Ðăng ký niêm yết tại thị trường chứng khoán cũng không phải là một biện pháp thay thế khả thi; hiện chỉ có 17 công ty được niêm yết, trong đó chỉ trừ một công ty, trước đây tất cả đều là các SOE.[147] Các công ty tư nhân cũng phải đối mặt với một cơ chế thuế nhiều phiền toái.[148]

Ðánh giá yếu tố thứ năm

Mặc dù Chính phủ đã có những bước tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng để phù hợp với quy định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, song tốc độ cải cách chậm chạp trong khu vực ngân hàng thương mại, và việc Chính phủ duy trì sự hiện diện đáng kể, nắm giữ tới 70%-80% khu vực này, là những nguyên nhân gây lo ngại đáng kể.

Khu vực tư nhân chớm tăng trưởng, chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là bộ phận cấu thành đầy ấn tượng của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, do Chính phủ vẫn có sự điều hành đáng kể đối với lãi suất và các chính sách cho vay, nên khu vực này vẫn bị hạn chế trong việc tiếp cận các khoản tín dụng cần thiết để duy trì sự tăng trưởng liên tục phù hợp với các nguyên tắc của một nền kinh tế thị trường. Mặc dù lĩnh vực ngân hàng chỉ chiếm một phần tư tổng tiết kiệm của Việt Nam, song những kiểm soát theo luật định và trên thực tế mà Chính phủ duy trì đã hạn chế lĩnh vực ngân hàng trong việc phát triển thành một trung gian tài chính thực sự.

Cuối cùng, mặc dù giá cả đã được tự do hóa một cách đáng kể, GPG vẫn duy trì quyền kiểm soát tùy ý đối với giá cả trong các lĩnh vực ngoài những lĩnh vực điển hình được xem là độc quyền tự nhiên.

Yếu tố thứ Sáu: Những nhân tố khác mà cơ quan thẩm quyền xem là thích hợp

Theo yếu tố này, Bộ Thương mại có thể giải quyết thêm bất kỳ vấn đề nào liên quan tới việc xem xét tình trạng kinh tế thị trường của Việt Nam. Một số những vấn đề cải cách kinh tế mà các nhà bình luận nêu ra không khớp với bất kỳ yếu tố nào trong năm yếu tố liệt kê trước đó. Những vấn đề này bao gồm tự do hóa thương mại, pháp quyền, và tham nhũng.

Tự do hóa thương mại

BTA đã có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Hiệp định này dành cho Việt Nam khả năng tiếp cận lớn hơn đối với thị trường Hoa Kỳ và Việt Nam đã thỏa thuận cắt giảm thuế, hạn ngạch, các yêu cầu cấp phép và các biện pháp phi thuế quan khác trong thời hạn chín năm. Hiệp định cũng bao gồm các điều khoản tự do hóa quyền xuất khẩu và mở cửa lĩnh vực dịch vụ, bao gồm lĩnh vực ngân hàng và tăng cường chế tài trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Trung tâm của hiệp định này là việc đưa vào quy định về đối xử quốc gia. Theo đó, Việt Nam cam kết dành cho các công ty Hoa Kỳ sự đối xử không khác biệt so với sự đối xử dành cho các SOE của Việt Nam, có nghĩa là tiến trình sàng lọc đầu tư hiện hành đối với hầu hết các lĩnh vực (theo đó các dự án đầu tư nước ngoài tiềm năng phải được thẩm định) sẽ bị loại bỏ trong vòng chín năm. Những lĩnh vực loại trừ bao gồm truyền thông và văn hóa; ngân hàng và đầu tư; khai khoáng và năng lượng; viễn thông; cảng và vận tải. Ðiều này có nghĩa là trong vòng vài năm tới, đối với các lĩnh vực đã cam kết, Việt Nam sẽ chấm dứt các điều kiện đối với việc thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc, cũng như dành cho các công ty đầu tư của Hoa Kỳ quyền thế chấp và chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Trong khi một số lĩnh vực, bao gồm tài chính và viễn thông, bị loại trừ khỏi điều khoản đối xử quốc gia, Hiệp định vẫn thực sự tự do hóa sự tham dự của Hoa Kỳ vào các lĩnh vực này. Với việc Hiệp định có hiệu lực, các chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập, và những hạn chế đối với việc góp vốn của Hoa Kỳ vào các ngân hàng Việt Nam sẽ dần dần bị loại bỏ cho tới năm 2009.[149] Các công ty Hoa Kỳ cũng có thể đầu tư vào thị trường viễn thông của Việt Nam, tuy nhiên chỉ với phần vốn góp thiểu số. Tác động thuần tuý của những ngoại lệ về đối xử quốc gia này là Chính phủ Việt Nam vẫn được phép “sàng lọc” việc tham dự của Hoa Kỳ vào những lĩnh vực này thông qua việc duy trì các yêu cầu cấp phép đòi hỏi có sự thẩm định của Chính phủ.

Nhằm tuân thủ BTA, năm 2001 Chính phủ Việt Nam đã thông báo Cơ chế xuất nhập khẩu 5 năm, thay thế những kế hoạch một năm trước đây. Việt Nam đã đi trước lịch trình thực hiện cam kết quy định bởi BTA trong việc loại bỏ các hạn chế số lượng (“QRs” - quantitative restraints) đối với các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu, đáng chú ý là đối với các mặt hàng vật liệu xây dựng, kính và những sản phẩm thép còn lại.[150] Tới năm 2003, chỉ có đường và các sản phẩm dầu mỏ là chịu sự điều chỉnh của cơ chế hạn chế số lượng.

Mặc dù những thỏa nhượng được đưa ra và các cam kết được thực hiện chỉ áp dụng với các công ty Hoa Kỳ, và phụ thuộc vào lịch trình từ ba đến chín năm, nhưng BTA vẫn thể hiện một cam kết lớn của Việt Nam theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư. Việt Nam ước tính sẽ thay đổi 148 văn bản pháp lý để đưa luật pháp của mình theo hướng phù hợp với Hiệp định.[151] FDI vào lĩnh vực nhập khẩu và phân phối của Việt Nam vẫn chịu sự điều chỉnh của những điều khoản riêng biệt chưa bao giờ được ban hành, nhưng Chính phủ đang chuẩn bị ban hành một nghị định vào năm 2004 cho phép đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, với một số ngoại lệ liệt kê ở trên.[152] Một điều cũng quan trọng là Việt Nam sẽ lập nên các tiêu chuẩn trọng tài được quốc tế công nhận vào 2007.

Việt Nam cũng đã tích cực trong việc trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam đã được kết nạp vào Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á. (“ASEAN”), và theo lịch trình sẽ gia nhập Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (“AFTA”) vào 2006. Việt Nam cũng đã có những tiến bộ trong việc cắt giảm thuế quan đánh vào hàng hóa xuất xứ từ các nước ASEAN khác.[153] Việt Nam cũng đã gia nhập diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (“APEC”) vào năm 1998 và nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, mặc dù khó có thể được chấp nhận trở thành thành viên trước năm 2005. Tự do hóa thương mại và mở cửa thị trường là những điều thiết yếu đối với việc gia nhập WTO, và tạo ra một động lực chủ yếu đối với cải cách kinh tế của Việt Nam. Mặc dù những tiến bộ này có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam và việc hội nhập của nước này vào hệ thống thương mại thế giới, nhưng còn quá sớm để xác định hiệu quả của những bước đi này .

Pháp quyền

Quy định pháp luật ở Việt Nam đặc biệt yếu: luật pháp không rõ ràng, tư pháp không độc lập với Ðảng Cộng sản, có quá ít luật sư và thủ tục xét xử còn sơ khai.[154] Một biểu hiện của sự thiếu lòng tin vào hệ thống pháp luật là việc nhiều FIE đã đưa vào trong các hợp đồng một điều khoản rằng tranh chấp sẽ được giải quyết tại Toà án Trọng tài Singapore.

Chính phủ đang thực hiện một chương trình Ðánh giá Nhu cầu Pháp luật cùng với một nhóm liên kết các nhà tài trợ quốc tế và song phương. Việc đánh giá này sẽ được tiến hành bao trùm những lĩnh vực cải cách cần thiết chính, như tạo ra một khung pháp lý đồng bộ nội tại; hợp lý hóa tiến trình làm luật và hiệp ước, tạo ra và tăng cường thể chế pháp lý cần thiết để thực thi luật; đào tạo luật cho các luật sư và quan toà, và tăng cường minh bạch hóa và hệ thống thông tin. [155] Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật dự kiến sẽ được Quốc hội phê chuẩn trước cuối năm 2002.

Tham nhũng

Các báo cáo cho thấy Việt Nam có mức độ tham nhũng cao và Chính phủ hiện hành đang tiến hành các biện pháp để giải quyết vấn đề này. [156] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tham nhũng là một vấn đề lớn ở nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi khác và ở một vài nền kinh tế thị trường.

Phân tích và Ðánh giá

Mặc dù Mục 771(18)(B) của Ðạo luật liệt kê sáu nhân tố mà Bộ Thương mại phải xem xét khi quyết định liệu một quốc gia có vận hành theo các nguyên tắc thị trường hay không, Ðạo luật không đưa ra chỉ thị hoặc phương hướng nào liên quan tới tầm quan trọng tương đối của từng nhân tố trong việc đánh giá tình trạng tổng thể của nền kinh tế Việt Nam. Như đã thảo luận ở trên trong mục “Phương pháp Phân tích”, Bộ Thương mại xem xét liệu xem các dữ kiện thực tế, khi áp dụng theo các nhân tố của đạo luật, có thể hiện rằng nền kinh tế nhìn chung vận hành theo các nguyên tắc thị trường hay không.

Bộ Thương mại thừa nhận những thay đổi tích cực, cả trong pháp luật và trên thực tế, mà Việt Nam đã trải nghiệm trong vòng 15 năm qua. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành những cải cách thị trường đáng kể từ sáng kiến đổi mới và đã thông qua luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên cơ sở thị trường. Mức lương chủ yếu dựa trên cơ sở thị trường. Chính phủ cũng đã khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các cải cách pháp lý mà gần đây đã dẫn đến sự tăng trưởng đầy ấn tượng của khu vực kinh tế tư nhân (phi nông nghiệp).

Tuy nhiên, khi áp dụng những nhân tố được yêu cầu theo mục 771(18)(B) của Ðạo luật, chúng tôi thấy rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi và không đủ tư cách là một nền kinh tế thị trường theo Luật Chống Phá giá. Tiền tệ Việt Nam, tiền đồng, không có khả năng chuyển đổi đầy đủ cho những giao dịch tài khoản vãng lai và trên thực tế không có khả năng chuyển đổi cho những giao dịch tài khoản vốn. Cùng với quy định của Chính phủ về thị trường ngoại hối liên ngân hàng, điều này ngăn cản sự phát triển của mối liên kết thông qua tỷ giá hối đoái giữa thị trường Việt Nam và các thị trường thế giới.

Mặc dù, FDI được khuyến khích, song cùng lúc lại bị điều chỉnh và định hướng thông qua các yêu cầu cấp phép và đăng ký. Những hạn chế về kiểm soát công ty và mức độ sở hữu nước ngoài được phép đã giảm thiểu hóa ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của khu vực SOE to lớn. Mục tiêu đã được chỉ ra của Chính phủ là tiếp tục bảo hộ và đầu tư vào những SOE trong lĩnh vực công nghiệp để đảm bảo rằng các doanh nghiệp này duy trì một vai trò chủ đạo trong cái mà Chính phủ đề cập tới như là một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách này thúc đẩy sự phát triển của các SOE và ảnh hưởng không tốt tới FDI.

Những ngành công nghiệp mà các SOE này đang hoạt động không chỉ hạn chế trong những lĩnh vực độc quyền tự nhiên truyền thống, mà mở rộng sang cả các lĩnh vực thực phẩm, bán buôn, bán buôn xăng dầu, các sản phẩm công nghệ thông tin, một số sản phẩm cơ khí và điện tử, sản xuất kim loại thép và kim loại màu, các hóa chất cơ bản, phân bón, xi-măng, xây dựng và dược phẩm. Kết quả của những chính sách này là cạnh tranh giữa khu vực nhà nước và phi nhà nước bị hạn chế, mặc dù Chính phủ đã có những nỗ lực khác thúc đẩy sự phát triển khu vực tư nhân và tăng cường đầu tư nước ngoài, nhằm gia tăng áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp lớn của nhà nước.

Mức độ cải cách hạn chế trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế Việt Nam đặt ra những lo ngại tương tự về việc Chính phủ tiếp tục kiểm soát đáng kể nền kinh tế. Bất chấp những cải cách gần đây trong lĩnh vực ngân hàng, Chính phủ vẫn duy trì quyền sở hữu và kiểm soát to lớn đối với khu vực ngân hàng thương mại. Kết quả là việc cho vay trên cơ sở phi thương mại có cơ hội tiếp diễn. Hơn nữa, ở Việt Nam không được phép sở hữu tư nhân về đất đai. Mặc dù Chính phủ đã phân quyền trong việc phân bổ quyền sử dụng đất, nhưng quyền đó không được tự do chuyển nhượng và vẫn chịu sự phê duyệt của chính quyền địa phương.

Khi tiến hành các phân tích của mình, Bộ Thương mại được yêu cầu phải xem xét tính tổng thể của các cải cách kinh tế của Việt Nam khi quyết định xem nền kinh tế của nước này có vận hành đầy đủ theo các nguyên tắc thị trường hay không. Mặc dù Việt Nam đã dỡ bỏ nhiều phần kiểm soát trong nền kinh tế, song các thị trường chức năng vẫn chưa đủ mạnh để thay sự kiểm soát của Chính phủ đối với phần lớn nền kinh tế. Kết luận của chúng tôi là các lực lượng thị trường tại Việt Nam chưa phát triển đủ mạnh để cho phép sử dụng các giá cả và chi phí tại nước này trong việc phân tích phá giá của Bộ Thương mại Mỹ.

Khuyến nghị

Căn cứ vào những chứng cứ nổi trội hơn liên quan tới các cải cách kinh tế ở Việt Nam tới nay, được phân tích theo yêu cầu của mục 771(18)(B) của Ðạo luật, chúng tôi khuyến nghị rằng Bộ Thương mại đối xử với Việt Nam như là một nước có nền kinh tế phi thị trường trong những tiến trình tố tụng về mức thuế chống phá giá và chống trợ cấp, có hiệu lực từ 1 tháng 7 năm 2001.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: