Phú thầy đồ
của Trần Tế Xương

Thầy đồ thầy đạc,
Dạy học dạy hành.
Vài quyển sách nát,
Dăm thằng trẻ ranh.
Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía,
Số có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh.
Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát:
Cho nên thầy lẩn quẩn loanh quanh.

Trông thầy:
Con người phong nhã,
Ở chốn thị thành,
Râu rậm như chổi,
Đầu to tày giành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.
Nhà lính, tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xưởng, mặc rặt những quần vân, áo xuyến,
Đất lề quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành.
Gần có một mụ, sinh được bốn anh.
Tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành.
Mẹ muốn con hay, rắp một nỗi biển, cờ, mũ, áo,
Chủ rước thầy học, tính đủ tiền chè, rượu, cơm, canh.
Chọnh ngày lễ bái,
Mở cửa tập tành
Thầy ngồi chễm chện,
Trò đứng xung quanh.
Dạy câu Kiều lẩy,
Dạy khúc Lý kinh.
Dạy những khi xuống ngựa lên xe, đứng ngồi phải phép,
Dạy những lúc cao lâu chiếu hát, ăn nói cho sành!