Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề ngân sách

Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề ngân sách  (1961) 
của Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được thông qua ngày 20 tháng 4 năm 1961.

Sau khi nghe Báo cáo của Chính phủ về tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1959, về tình hình chấp hành ngân sách nhà nước năm 1960 và về Dự thảo ngân sách nhà nước năm 1961,

Sau khi nghe Uỷ ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội thuyết trình và các đại biểu tham luận,

QUYẾT NGHỊ:

1. Quốc hội phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1959 với:

- Tổng số thu là một nghìn hai trăm mười một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn một trăm tám mươi tư đồng (1.211.545.184 đồng).

- Tổng số chi là một nghìn một trăm ba mươi tám triệu, ba trăm sáu mươi bẩy nghìn ba trăm tám mươi lăm đồng (1.138.367.385đồng).

2. Quốc hội nhất trí với Chính phủ về nhận định tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1960: ngân sách nhà nước năm 1960 đã thực hiện được tốt. Đó là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa ở miền Bắc nước ta.

3. Quốc hội phê chuẩn ngân sách nhà nước năm 1961 với:

- Tổng số thu là một nghìn sáu trăm chín mươi triệu đồng (1.690.000.000 đồng).

- Tổng số chi là một nghìn sáu trăm chín mươi triệu đồng (1.690.000.000 đồng).

4. Trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước năm 1961, Chính phủ cần chỉ đạo chặt chẽ công tác thu chi, ra sức khai thác các khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân, nhằm tăng thu và triệt để tiết kiệm chi.

Quốc hội giao cho Chính phủ, trong quá trình thực hiện ngân sách, căn cứ vào tình hình thực tế mà kịp thời điều chỉnh một số khoản thu chi cần thiết phải điều chỉnh, trên nguyên tắc bảo đảm thăng bằng thu chi và theo phương hướng của ngân sách đã được Quốc hội thông qua, nhằm hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước năm 1961.


Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 20 tháng 4 năm 1961.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".