Đời cách mạng Phan Bội Châu/Tôi trốn sang Tàu, gặp cụ Nguyễn Thuật và Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Châu

Đời cách mạng Phan Bội Châu của Phan Bội Châu, do Đào Trinh Nhất dịch
Tôi trốn sang Tàu, gặp cụ Nguyễn Thuật và Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Châu

TÔI TRỐN SANG TÀU, GẶP CỤ NGUYỄN-THUẬT VÀ LƯU-VĨNH-PHÚC Ở QUẢNG-CHÂU

NAY tôi vâng mạng của đảng sai khiến, xuất-dương là lần đầu hết.

Tôi đi đây, vốn lấy tư cách là đại-biểu của đảng cách mạng một nước mà đi. cũng tức là đại biểu cho toàn quốc dân một nước mà đi.

Nếu như tôi là người tài cao trí giỏi, học rộng biết nhiều về mặt ngôn ngữ, văn tự, chánh-trị, học-thuật ngoại quốc cũng thông thuộc nằm lòng, như kẻ nhớ biết mỏi mòn đồ quý trong nhà họ kia thế thì mình có mang cái hổ vong quốc mặc dầu, nhưng được điều không thẹn mình là giống người giỏi-dang trên đời. Được vậy, chẳng phải đủ làm vẻ vang cho dân ta nước ta ở xứ ngoài sao!

Tiếc thay! người thứ nhất được đi ra ngoài cùng thế giới hội-diện, lại là người ngu dốt quê mùa như tôi; tài đã không có tài, học cũng không nhằm học. Trừ ra ba câu chữ Hán, chứa đầy bụng cũng như là không. Tấm thân đã là con người mất nước, tánh mạng vốn không đủ gì trọng khinh, nhưng tài học cũng không đủ gì phẩm lượng, thật mình làm trụy-lạc mất cã giá-trị quốc dân mình tới đâu mà nói cho xiết. Như vậy thì trời đất minh mông có chỗ nào dung được mình? Đêm khuya nhìn bóng hổ thầm, đến đỗi lệ tuôn như máu. Tới nay tôi nhớ lại việc cũ, chỉ xin quốc dân ta lượng xét cho tôi là may!

Nghĩ xem mình đã sinh nhằm non sông còn ấu trĩ, nòi giống còn u mê, chưa được mỡ mang cho nên vừa ở trong bọc mẹ lọt ra, không ai chỉ vẽ dìu dắt để mở trí cho mình, lại gặp phải cái cảnh giam hãm xiềng khóa đêm ngày, người ta chỉ sợ mắt mình được thấy, tai mình được nghe, như thế bảo sao mình không ngu muội cho được!

Dầu vậy mặc lòng, ban đầu tôi mới phụng mạng của đảng cử đi ra ngoài, thật tôi chưa biết có nông nổi khổ nhục thế này đâu. Con chim bị dốt trong lồng lâu ngày, ngó thấy trời rộng mây xanh, thèm thuồng hết sức. Thình lình bây giờ có dịp thoát mình ra khỏi lồng được, thì trong óc hớn hở, chỉ biết cái vui được cởi mây lướt gió, phóng khoáng tự do, chứ đâu có vội nghĩ tới sau khi ra khỏi lồng rồi thì gặp phải tình trạng ra làm sao. Vì đó mà tôi mạnh bạo vâng mạng của đảng ra đi.

Hạ tuần tháng chạp năm Giáp-thìn tôi tới kinh yết-kiến Hội-chủ. dặn dò công việc sau khi tôi đi rồi. Lại đi thăm viếng hết thảy những người trọng yếu trong đảng, bàn bạc mọi việc quan hệ.

Sắp đặt đâu đó xong cả rồi, liền từ Quảng-nam lên đường khởi hành.

Cùng đi với tôi có hai người, là ông Tăng-bạt-Hổ và ông Đặng-tử-Kính.

Tăng-quân lúc trước từng làm mặc-khách, giúp bàn việc quân cho Lưu-vĩnh-Phúc, có dịp đi du lịch khắp hai tỉnh Quảng và Đài-loan hơi thông tiếng nói Quảng-đông,

Tháng 4 năm đó, Tăng quân mới ở hải-ngoại về, nay lại cùng tôi lo lắng việc đảng, và đảng lựa chọn cùng xuất-dương với tôi, thật là xứng đáng.

Mùng hai tháng riêng năm Ất-tị (1905) chúng tôi ra Hải-phòng để xuất dương.

Lúc xuống tàu, tôi khẩu-chiếm bài thơ từ giã anh em:

生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移

於百年中湏有我
豈千載下竟無誰
江山死矣生徒贅
賢聖寥然頌亦痴
願逐長風東海去
千重白浪一齊飛

« Sinh vi nam tử yếu hy kỳ
« Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
« Ư bách niên trung tu hữu ngã,
« Khởi thiên tải hạ cánh vô thùy.
« Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế.
« Hiền thánh liêu nhiên tụng riệc si
« Nguyện trục trường phong Đông hải khứ.
« Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

BÀI DỊCH

Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời!
Trong cuộc trăm năm đành có tớ,
Rồi sau muôn thuở há không ai?
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoài.
Đông-hải xông pha nương cánh gió,
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi.

Từ đây trở đi, chúng tôi để chân vào con đường nguy-hiểm rồi.

Chánh-phủ Pháp không cho người Việt-Nam mình có quyền tự-do lai vãng. Phàm ai muốn ra xứ ngoài du-lịch hay là buôn bán, nếu không được Bảo-hộ cho phép đi. thì tất bị buộc vào tội ngầm thông nước ngoài, mưu chuyện làm loạn. Có điều là ai được Bảo-hộ cho phép đi, tất phải là người có tư cách đủ tin cậy hay là khéo chiều lòng mới được; tài vốn không có đủ những tư cách ấy, thành ra tôi phải đi trốn.

Tăng-quân đi trốn nhiều lần rồi, đường xá rất quen thuộc thông thạo; ông chỉ vẽ cho tôi cái kế thay hình đổi dạng để qua cửa quan-ải cho lọt.

Từ Hải-phòng ra Moncay, tôi giả làm chú khách đi buôn, cạo đầu kết bím, đáp một chiếc tầu buôn mà đi.

Lúc tầu đến bến, chúng tôi đợi đêm khuya mới dám mướn một chiếc thuyền đánh cá nho nhỏ, lén qua Trúc-sơn. Trường-sơn là bờ cõi huyện Phong thành nước Tàu.

Chuyến đi này tuy là nguy-hiểm, nhưng mà vui thú lạ thường.

Ra khỏi bờ cõi rồi, các món giấy tờ quan hệ và tiền bạc của chúng tôi đều còn nguyên lành. Ôi người ta nghiêm cấm mình chừng nào, kết quả bà con mình càng thêm giỏi cái ngón phá cũi xổ lồng chừng nấy, không riêng gì một mình tôi, theo chân nối gót chúng tôi đi ra hải ngoại, còn thiếu chi người!

Ở lại Trúc-sơn một tuần-lễ mới đáp ghe buồm Khâm-châu mà đi Bắc-hải.

Lúc bây giờ đã bước qua sơ tuần tháng hai, còn có ngọn gió đông bắc thổi khá, thành ra ghe đi chỉ có 7 ngày tới Hiệp-phố. Chúng tôi đổi sang tàu buôn Hồng-mao mà đến Hương-cảng.

Tàu đến bến, chúng tôi lên bờ, ở loanh quanh hết hơn một tuần lễ. Trong óc tôi lúc này thấy sự vui sướng không biết sao mà nói, cảm sự đau khổ, cũng không biết sao mà nói.

Vì tôi mời bỏ nước trốn đi, người Pháp chưa hề nghe biết. Lúc ra khỏi bờ cõi áp chế rồi, mình thấy hoàn cảnh mình đều là không khí tự do, mặc ý mình đi lại thong thả, trái lại, thân mình về trước không khác gì một con ngựa hay, bị nhốt trong chuồng, lại bị người ta may kín cả hai mắt lại tối đen, nay bỗng chốc được cắt chỉ mở mắt ra mà chạy nhớn nhơ rong ruổi ở giữa khoảng đồng rộng minh mông, sung sướng thảnh thơi biết mấy. Nhưng nghĩ mình thì vậy, nhớ tới cái cảnh đồng bào đang bị bó buộc, thì ruột mình muốn dứt ra từng khúc.

Tại Hương-Cảng thấy học trò đi học vui vẻ đông đảo, cảnh buôn bán tấp nập đêm ngày; giọc đường không hề thấy ai bị lính bắt đứng lại xét hỏi giấy thân; không có ai đi đêm không đèn mà bị lính thộp ngực dẫn về bóp; không có thứ lính tuần hung bạo ngang tàng, bắt bớ người vô tội ở giữa đường không có cảnh tượng người bản-xứ bị người Âu-tây bát nạt mà phải nép mình một bên đường. Ôi! Hương-Cảng cũng là đất dưới quyền ngoại-nhân cai trị, nhưng Hương-Cảng có vẻ mùa xuân tươi cười, không phải như ở xứ mình. Lúc này tôi nghe nói quan Hiệp-đốc đại-thần Nguyễn-thiên-Thuật trước kia vì quốc-nạn mà chạy sang Quảng-Đông, giờ đang ngụ trong nhà thờ họ Lưu ở Sa-hà. Nguyễn-công là người ngang hàng với bậc thân-phụ tôi, lại là một tay cần-vương ngày trước, nay tôi sang tới đây, chẳng lẽ không nói cho cụ biết.

Tôi bèn đi Quảng-Đông, tìm tới viếng cụ. Thấy tôi, cụ hết sức vui mừng, rồi dắt tôi đến yết kiến Uyên Đình Lưu-vĩnh-Phúc.

Lưu bây giờ đã già, nhưng cùng tôi nói lại chuyện cũ ở Bắc-Kỳ, thỉnh thoảng Lưu còn vỗ bàn hàn hét lớn, khiến cho tôi tưởng thấy cái hùng-phong như hồi đánh nhau với quân tây ở Cầu-giấy gần Hà-nội vậy.