Hán văn độc tu 1932/Bài học thứ bảy
I. Học những tiếng về verbe
sửaChữ Hán | Đọc | Nghĩa |
---|---|---|
往 | Vãng | Qua |
來 | Lai | Lại, đến |
去 | Khứ | Đi |
回 | Hồi | Về, trở về |
歸 | Quy | Về |
返 | Phản | Trở lại, trở về |
至 | Chí | Đến |
居 | Cư | Ở |
問 | Vấn | Hỏi |
對 | Đối | Thưa (trả lời) |
使 | Sử | Khiến |
遣 | Khiển | Sai đi đâu |
得 | Đắc | Đặng, được |
失 | Thất | Mất |
信 | Tín | Tin |
疑 | Nghi | Nghi, ngờ |
欲 | Dục | Muốn |
惡 | Ố | Ghét |
教 | Giáo | Dạy |
養 | Dưỡng | Nuôi |
罰 | Phạt | Phạt |
赦 | Xá | Tha |
笑 | Tiếu | Cười |
哂 | Thấn | Cười chúm chím |
哭 | Khốc | Khóc (ra tiếng) |
泣 | Khấp | Khóc (ra nước mắt mà không tiếng) |
用 | Dụng | Dùng |
棄 | Khí | Bỏ |
守 | Thủ | Giữ |
取 | Thủ | Lấy |
II. Cắt nghĩa thêm
sửaChữ 往 nghĩa là từ chỗ nầy đi đến chỗ kia, cũng như aller à, partir pour, chớ không phải là passer đâu. Cắt nghĩa là qua, tiếng qua ấy tức như nói ở đây đi qua Tây, đi qua Hương Cảng v.v... Còn passer là ngang qua, trải qua, chữ Hán là 過 (quá).
Khi nói luôn hai tiếng 往 來, nghĩa là fréquenter. (Nhưng không được đúng cho lắm; muốn cho thật đúng với chữ fréquenter, phải nói: 常 常 (thường thường) 往 來 hay là 屢 屢 (lủ lủ, là hoài hoài, nhiều lần) 往 來. Lại 往 來 cũng có nghĩa là va et vient nữa.
Chữ 去 như đã giải một lần rồi, khi có ý nói từ bỏ chỗ nào mà đi mới nói 去 được, giống như chữ quitter; lại khi có ý nói đi trớt, đi cho rảnh, như s'en aller, thì cũng nói 去 được. Vậy hãy nhớ điều nầy: Khi muốn nói tôi đi Hà Nội, nghĩa là ở Sài Gòn mà đi ra Hà Nội, thì phải nói 我 往 河 內 chớ không được nói 去. Nếu nói 我 去 河 內 thì thành ra quitter Hà Nội mất.
Khi nói luôn hai tiếng 去 回 thì nghĩa là aller et retour. Nhưng trong Hán văn không hề nói như vậy, người ta nói 往 返, cũng một nghĩa ấy (Chữ khứ hồi đã thành ra một cái terme sino-annamite).
Chữ 至 là đến, nghĩa là đến sau khi đã đi, như arriver. Còn một chữ giống nghĩa với nó là chữ 到 (đáo là đến). Chớ lầm hai chữ đó mà tưởng nó giống nghĩa chữ venir; không đâu, 來 mới là vennir.
Chữ 使 là khiến ai, khiến làm việc gì, khiến đi đâu, đều nói được cả; nhưng chữ 遣 thì chỉ có nghĩa sai đi hay là khiến đi mà thôi, bởi vậy nó mới thuộc về bộ xước.
Chữ 惡 (đọc là ố) nguyên đọc là ác, nghĩa là dữ, nhưng ở đây phải đọc là ố, nghĩa là ghét. Cũng như trong bài học thứ sáu, có chữ 爲 (đọc là vị), nguyên đọc là vi, nghĩa là làm, nhưng ở đó phải đọc là vị, nghĩa là vì. (Sự biến âm nầy có theo một cái luật riêng, đợi khi biết nhiều chữ sẽ dạy; bây giờ chỉ nên cứ nhớ như thế).
III. Văn pháp Verbe passif
sửaCũng như tiếng Pháp, trong chữ Hán, bao nhiêu verbe actif đều làm thành verbe possif được cả.
Ta hãy nhắc lại cách đặt câu bằng verbe actif: Như nói 父 愛 子, 父 là sujet, 愛 là verbe, 子 là complément, vậy là nghĩa nó xuôi một mạch.
Cũng lấy theo ý câu đó mà đặt bằng verbe passif thì lại đảo lộn sujet và complément đi, cũng như tiếng Pháp.
Người ta dùng hai cách mà làm thành verbe passif: một là đặt với chữ 爲 (vi) 所 ; một là đặt với chữ 見 於.
Cách trên: Để sujet trước hết, rồi đến chữ 爲, rồi đến complément, rồi đến chữ 所, rồi đến verbe; vậy hãy nói: 子 爲 父 所 愛.
Cách dưới: Để sujet trước hết, rồi đến chữ 見, rồi đến verbe, rồi đến chữ 於, rồi đến complément, vậy hãy nói: 子 見 愛 於 父.
Thế thì, khi nào đọc sách gặp những câu có cái hình thức (forme) như thế, thì cứ việc nhận ngay nó là verbe passif đi; và, 爲 所 愛 hay 見 愛 於 cũng đều cho nó là một cái verbe, như être aime.
Chữ 爲 nghĩa là làm, chữ 見 nghĩa là thấy, nhưng trong khi một hiệp với chữ 所, một hiệp với chữ 於 mà làm thành verbe passif thì cái nghĩa nguyên ấy đã mất rồi, đừng theo nghĩa cũ nó nữa, chỉ nên cắt nghĩa nó là được hay bị. (Verbe passif của tiếng An Nam có hai cách đặt, một là đặt với chữ được, một là đặt với chữ bị).
IV. Những thành ngữ dùng vào Quốc văn
sửa愛 屋 及 烏 = Ái ốc cập ô. Yêu (tiếc) cái nhà kịp đến con quạ. Con quạ đậu trên nóc nhà, muốn ném nó, song sợ bể nóc nhà không ném. Ví với vì một kẻ nào mà khoan dung cho một kẻ nào.
半 信 半 疑 = Bán tín bán nghi: Nửa tin nửa ngờ. (半, đọc là bán, nghĩa là nửa).
人 棄 我 取 = Nhân khí ngã thủ: Người bỏ, ta lấy. Cái vật người khác bỏ, mình lại lấy, ý nói mình biết lợi dụng.
生 寄 死 歸 = Sanh ký tử quy: Sống gởi thác về. Người ta do sự hư không mà sanh ra, chết đi lại về với sự hư không; nhìn cho hư không là quê hương của người ta, cho nên nói như vậy (寄 đọc là ký, nghĩa là gởi).
得 失 參 半 = Đắc thất tham bán: Đặng mất xen nửa. Chỉ về việc gì không lưỡng toàn, đặng nửa, mất nửa. (參 đọc là tham, đây nghĩa là xen).
養 虎 貽 患 = Dưỡng hổ di hoạn: Nuôi cọp để sự lo. Ví với khoan dung kẻ ác rồi sau bị nó hại (虎 hổ là cọp; 貽 di là để lại về sau; 患 hoạn là sự lo).
V. Tập đặt
sửaLàm 5 câu nầy thành ra verbe passif với chữ 爲 所 :
1. Tôi ghét nó. - 2. Người ta cười tôi. - 3. Gió thổi áo tôi. - 4. Cha tôi ngờ anh tôi. - 5. Con cọp ăn con bò.
Làm 5 câu nầy thành ra verbe passif với chữ 見 於.
1. Chồng bỏ vợ. - 2. Mẹ tôi yêu em tôi. - 3. Nó cười tôi. - 4. Người ta tin tôi. - 5. Cha tôi nuôi nó.
Làm xong rồi coi dưới nầy mà sửa nếu thấy mình làm trật:
1. 彼 爲 我 所 惡 . 2. 我 爲 人 所 笑 . 3. 吾 衣 爲 風 所 吹 . 4. 吾 兄 爲 吾 父 所 疑 . 5. 牛 爲 虎 所 食 .
1. 妻 見 棄 於 其 夫 . 2. 吾 弟 見 愛 於 吾 母 . 3. 吾 見 笑 於 彼 . 4. 吾 見 信 於 人 . 5. 彼 見 養 於 吾 父 .