Báo cáo tình hình buôn người năm 2020

Báo cáo tình hình buôn người năm 2020  (2020) 
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Báo cáo được công bố ngày 26 tháng 6 năm 2020.

Việt Nam (Danh sách theo dõi Nhóm 2)

Chính phủ Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu về xóa bỏ nạn buôn người, nhưng đang có những nỗ lực đáng kể để thực hiện việc này. Các nỗ lực này bao gồm cho nạn nhân buôn người có quyền được đại diện pháp lý trong các quy trình tố tụng tư pháp; tăng thời gian nạn nhân có thể ở lại trong cơ sở tạm lánh thêm một tháng và tăng hỗ trợ tài chính cho họ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu; tiếp tục tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức quy mô lớn ở các cộng đồng có nguy cơ cao về buôn người, trong đó có người lao động di cư ra nước ngoài; đào tạo các cán bộ thực thi pháp luật. Tuy nhiên, nhìn chung, chính phủ không thể hiện các nỗ lực cao hơn so với kỳ báo cáo trước. Đây là năm thứ ba liên tiếp chính phủ xác định số nạn nhân ít hơn đáng kể so với năm trước. Các thủ tục xác định nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân vẫn còn phiền hà, chậm trễ và không hiệu quả. Việc thiếu cơ chế phối hợp liên ngành và các cán bộ cấp tỉnh thiếu hiểu biết về pháp luật chống buôn người và về vai trò, trách nhiệm bảo vệ nạn nhân tiếp tục cản trở các nỗ lực chống buôn người. Theo báo cáo, các công ty tuyển dụng lao động – hầu hết có liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước – và các bên môi giới không được cấp phép đã thu phí của người lao động muốn tìm việc làm ở nước ngoài cao hơn mức luật cho phép; những người lao động này mắc các khoản nợ lớn và có nguy cơ cao bị cưỡng bức lao động, trong đó có việc bị ép phải lao động trừ nợ. Mặc dù có báo cáo về việc các cán bộ nhà nước đồng lõa với bọn buôn người, chính phủ không công bố thông tin nào về việc điều tra, truy tố, hoặc kết án các cán bộ nhà nước đồng lõa trong các vụ buôn người. Vì vậy, Việt Nam vẫn được xếp vào danh sách theo dõi nhóm 2 trong năm thứ hai liên tiếp.

CÁC KHUYẾN NGHỊ CẦN ĐƯỢC ƯU TIÊN

Thông qua kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2021-2025, trong đó xác định rõ vai trò của các cơ quan trung ương và địa phương ở các bộ ngành; quy định rõ các hành động thực thi pháp luật, bảo vệ và phòng ngừa; kế hoạch này phải dựa trên việc thu thập dữ liệu về buôn người; và bố trí đủ nguồn lực cho việc thực thi. • Truy tố nghiêm khắc tất cả các hình thức buôn người, kết án và trừng trị bọn buôn người, bao gồm các vụ án liên quan đến lao động cưỡng bức hoặc có cán bộ nhà nước đồng lõa; • Sửa đổi bộ luật hình sự để tội phạm hóa tất cả các hình thức buôn bán nô lệ tình dục trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi phù hợp với pháp luật quốc tế. • Tiếp tục đào tạo cán bộ về các văn bản hướng dẫn thi hành Điều 150 và Điều 151 Bộ luật hình sự, tập trung vào việc xác định và điều tra các vụ án về cưỡng bức lao động và buôn người trong nước, bao gồm cả các vụ việc mà nạn nhân là nam giới. • Phối hợp với xã hội dân sự, cập nhật các văn bản hướng dẫn thi hành về xác định nạn nhân nhằm giảm các rào cản hành chính quan liêu cản trở việc phát hiện nạn nhân và đào tạo các cán bộ liên ngành về việc sử dụng các văn bản hướng dẫn này. • Mời các chuyên gia độc lập xác minh về việc chấm dứt tình trạng lao động cưỡng bức trong các trung tâm cai nghiện ma túy và cung cấp kết quả xác minh. • Phối hợp và thực thi có hiệu quả các chính sách giữa các cơ quan chính phủ để xác định và trợ giúp nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như người lao động di cư, người hành nghề mại dâm và lao động trẻ em. • Có biện pháp xóa bỏ hoàn toàn việc thu phí tuyển dụng lao động và các hình thức tuyển dụng lao động có tính chất săn mồi đối với người lao động di cư ra nước ngoài hoặc di cư đến Việt Nam, bằng việc tăng cường các nỗ lực giám sát các công ty tuyển dụng lao động và bên thứ ba môi giới lại lao động, truy tố các mạng lưới môi giới lại lao động có tính chất săn mồi hoặc bất hợp pháp. • Mở rộng đào tạo cho các nhân viên công tác xã hội, các cán bộ có trách nhiệm phản ứng đầu tiên với nạn buôn người và tòa án về các phương pháp tiếp cận lấy nạn nhân làm trung tâm khi làm việc với nạn nhân buôn người, trong đó có sự quan tâm hỗ trợ dựa trên hiểu biết về sang chấn tâm lý. • Tăng ngân sách trung ương cho chính quyền cấp tỉnh để cung cấp các dịch vụ cho nạn nhân buôn người tái hòa nhập cộng đồng.

HOẠT ĐỘNG TRUY TỐ

Chính quyền đã giảm bớt các nỗ lực thực thi pháp luật nhưng cải thiện việc đào tạo về chống buôn người. Điều 150 Bộ luật hình sự tội phạm hóa hành vi buôn bán người lao động và buôn người vì mục đích tình dục đối với nạn nhân là người đã thành niên và quy định hình phạt tù từ 5 đến 10 năm và phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng Việt Nam (VNĐ) ($860 đến $4.320). Điều 151 tội phạm hóa hành vi buôn bán người lao động và buôn người vì mục đích tình dục đối với nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi và quy định hình phạt tù từ 7 đến 12 năm và phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu VNĐ ($2.160 đến $8.630). Các hình phạt này đủ mức độ nghiêm khắc, và hình phạt đối với hành vi buôn người vì mục đích tình dục tương xứng với các hình phạt quy định cho các tội phạm nghiêm trọng khác như tội hiếp dâm. Điều 150 không thống nhất với pháp luật quốc tế, áp dụng đối với trẻ em từ 16 tuổi đến 17 tuổi và yêu cầu phải có thủ đoạn ép buộc, lừa gạt, hoặc cưỡng bức thì mới cấu thành hành vi buôn người vì mục đích tình dục; do đó, quy định này không tội phạm hóa tất cả các hình thức buôn bán trẻ em vì mục đích tình dục. Theo báo cáo trước đây của xã hội dân sự, điều này dẫn đến sự lúng túng về cách thức xử lý các vụ việc liên quan đến trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi – đặc biệt là các vụ việc liên quan đến buôn bán người lao động – và dẫn đến hậu quả là các nạn nhân bị đối xử như người đã thành niên. Chính phủ tìm cách khắc phục vấn đề này bằng biện pháp hành chính, nhưng không có các ví dụ minh họa về các vụ án cụ thể tại thời điểm kết thúc kỳ báo cáo. Đây là năm thứ ba liên tiếp, chính phủ báo cáo về việc giảm số vụ điều tra, truy tố, và kết án tội phạm buôn người trong kỳ báo cáo. Do chính phủ không tách bạch dữ liệu theo hình thức buôn người, nên năm thứ tám liên tiếp chính phủ không báo cáo về việc có truy tố người nào bị tình nghi phạm tội buôn người theo các quy định về buôn bán người lao động của Luật phòng chống mua bán người hay không. Theo Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và Bộ đội Biên phòng Việt Nam (thuộc Bộ Quốc phòng) đã xác định 175 vụ buôn người, giảm so với 211 vụ năm 2018 và 350 vụ năm 2017, bắt 229 đối tượng bị cáo buộc là buôn bán người, giảm so với 276 đối tượng năm 2018 và hơn 500 đối tượng năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân các cấp báo cáo đã truy tố 166 bị can về tội mua bán người, giảm so với 194 bị can năm 2018 và 245 bị can năm 2017, và hệ thống tòa án đã kết án 174 bị cáo, giảm so với 213 bị can năm 2018 và 244 bị can năm 2017; tuyên án từ dưới 3 năm tù đến 30 năm tù. Các cơ quan nhà nước tiếp tục báo cáo về tình trạng dữ liệu có sự chênh lệch, chồng chéo, hoặc không đầy đủ về thực thi luật chống buôn người và xác định nạn nhân. Nhà chức trách không cung cấp dữ liệu toàn diện về tội phạm buôn người theo hình thức buôn người, độ tuổi hoặc giới tính của nạn nhân, quốc gia nguồn, quốc gia đích của việc buôn người, gây khó khăn cho việc tách bạch các nỗ lực chống buôn người với nỗ lực chống các tội phạm khác, trong đó có các vụ đưa người di cư trái phép. Trong kỳ báo cáo, các thỏa thuận chống buôn người song phương mà chính phủ đã ký kết với Campuchia, Trung Quốc, Lào, Hàn Quốc, Thái Lan và Vương quốc Anh nhằm cải thiện cơ chế phối hợp thực thi pháp luật vẫn có hiệu lực. Các thỏa thuận này tạo thuận lợi cho các hành động thực thi pháp luật của các cán bộ địa phương ở Việt Nam, một đất nước được quản lý tập trung bởi chính quyền trung ương. Theo thỏa thuận được ký kết với Vương quốc Anh, vào tháng 4 và tháng 8 năm 2019, chính phủ đã ban hành kế hoạch hành động, trong đó phân công trách nhiệm cụ thể về chống buôn người cho nhiều cơ quan và phê duyệt một dự án do Vương quốc Anh tài trợ về chống buôn người.

Sau khi phát hiện 39 thi thể người Việt Nam, trong đó có 3 người chưa thành niên, vào tháng 10 năm 2019 trong một xe tải đông lạnh ở Anh, chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị quyết yêu cầu các cơ quan hữu quan và viên chức ngoại giao ở Anh điều tra nghiêm túc vụ việc này và ngăn chặn việc đưa người di cư trái phép.

Mặc dù có một số báo cáo về việc các cán bộ nhà nước đồng lõa với bọn buôn người, chính phủ không công bố thông tin nào về việc điều tra, truy tố, hoặc kết án các cán bộ nhà nước đồng lõa trong các vụ buôn người; tuy nhiên, tham nhũng và sự đồng lõa của cán bộ nhà nước, đặc biệt là liên quan đến các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, vẫn là các mối quan ngại đáng kể, cản trở hành động thực thi pháp luật trong năm qua. Việc thiếu vắng một hiệp định về dẫn độ với Trung Quốc đã cản trở việc truy tố những kẻ buôn người, các cán bộ Việt Nam và các tổ chức chính phủ nêu ra sự thiếu hợp tác của Trung Quốc mặc dù đã có các hiệp định song phương chính thức khác giữa hai nước. Chính phủ không công bố dữ liệu về dẫn độ.

Tình trạng thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan cấp tỉnh, ngân sách thường xuyên eo hẹp, nhận thức yếu kém của các cán bộ địa phương về luật chống buôn người, và sự hiểu biết không rõ về vai trò, trách nhiệm của các tỉnh trong kế hoạch hành động quốc gia tiếp tục cản trở các nỗ lực thực thi pháp luật hiệu quả. Chính phủ không công bố việc tổ chức lại Bộ Công an năm 2018, trong đó có việc sáp nhập Cục Tham mưu cảnh sát chịu trách nhiệm về chính sách và nghiệp vụ chống buôn người với Cục Cảnh sát hình sự (C45) chịu trách nhiệm thực hiện công tác chống buôn người, đã cải thiện sự lưu chuyển thông tin và sự phối hợp liên ngành hoặc các nỗ lực thực thi pháp luật như thế nào trong kỳ báo cáo. Cảnh sát và các cán bộ khác ở ít nhất một tỉnh đã phối hợp với một tổ chức phi chính phủ xác định các nạn nhân buôn người Việt Nam ở Trung Quốc và tiến hành các cuộc điều tra về tội phạm buôn người, mặc dù việc đóng cửa biên giới vào tháng 1 năm 2020 đã cản trở đáng kể các nỗ lực này. Chính phủ công bố việc đã đào tạo cho 153 cán bộ thực thi pháp luật về Điều 150 và Điều 151; 136 bộ đội biên phòng và cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ; 128 cán bộ liên ngành về chống buôn bán trẻ em; 410 cán bộ liên quan về các quy định pháp luật về chống buôn người; và gần 300 viên chức ngoại giao và lãnh sự; các khóa đào tạo này đôi khi có sự phối hợp với các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, Hội liên hiệp phụ nữ và các cán bộ nhiều tỉnh, huyện, xã đã tổ chức nhiều khóa đào tạo, trong đó có đào tạo về phòng ngừa nạn buôn người và trợ giúp nạn nhân.

BẢO VỆ NẠN NHÂN

Chính phủ duy trì các nỗ lực trong việc bảo vệ nạn nhân nhưng xác định và cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân với số lượng ít hơn. Năm 2019, nhà chức trách công bố đã xác định 300 nạn nhân buôn người, đôi khi có sự phối hợp với các tổ chức phi chính phủ – con số này giảm so với 490 nạn nhân năm 2018 và 670 nạn nhân năm 2017; tuy nhiên, hình thức bóc lột đối với một số nạn nhân là không rõ ràng. Chính phủ không cung cấp con số thống kê các vụ việc buôn người theo hình thức buôn người, tuổi hoặc giới tính của nạn nhân, quốc gia nguồn hoặc quốc gia đích của việc buôn người. Chính phủ áp dụng các tiêu chí xác định nạn nhân phổ biến theo Sáng kiến phối hợp cấp bộ trưởng về chống buôn người tiểu vùng sông Mê kông (COMMIT) và quy trình theo luật năm 2014 của mình để xác định nạn nhân; tuy nhiên, không sử dụng các tiêu chí và quy trình này một cách chủ động hoặc rộng rãi để xác định nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như phụ nữ bị bắt vì hành nghề mại dâm, người lao động di trú từ nước ngoài trở về và lao động trẻ em. Các nạn nhân là người nước ngoài, trong đó có trẻ em, vẫn có nguy cơ bị trục xuất cao mà không được sàng lọc hoặc chuyển đến các cơ sở bảo vệ nạn nhân. Quy trình xác định nạn nhân vẫn còn quá rắc rối và phức tạp, yêu cầu sự xác nhận của nhiều bộ để nạn nhân có thể chính thức được xác định và hỗ trợ. Một số cán bộ địa phương và tổ chức phi chính phủ cho biết chính quyền trung ương không cung cấp đủ nguồn lực hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật hình sự mới hoặc sửa đổi các văn bản hướng dẫn về xác định nạn nhân, điều này đã ngăn cản bộ đội biên phòng, cán bộ thực thi pháp luật và các cán bộ khác có thể phát hiện đầy đủ và trợ giúp các nạn nhân.

Chính phủ công bố có 269 trong tổng số 300 nạn nhân đề nghị trợ giúp và thực tế đã được trợ giúp (con số tương ứng năm 2018 là 490 nạn nhân và năm 2017 là 500 nạn nhân). Các nạn nhân được hỗ trợ về các nhu cầu thiết yếu, hỗ trợ y tế, tư vấn sức khỏe tâm thần, hỗ trợ pháp lý, giáo dục, đào tạo nghề. Chính phủ đã chuyển 110 nạn nhân đến các cơ sở tạm lánh. Chính phủ không chuyển nạn nhân đến các cơ sở bảo vệ nạn nhân một cách có hệ thống do quy trình chuyển nạn nhân còn khiếm khuyết, ví dụ một số cán bộ biên phòng chưa quen thuộc với tội phạm buôn người, thiếu sự hợp tác giữa các vùng, các quy trình thu thập dữ liệu chưa đầy đủ. Ngân sách năm 2019 của chính phủ dành cho trợ giúp nạn nhân là 7,12 tỷ VNĐ ($307.280), trong đó không bao gồm kinh phí do các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ cung cấp. Chính phủ không công bố việc chính phủ phân bổ các nguồn kinh phí này như thế nào. Các quan sát viên trước đây từng báo cáo rằng chính quyền trung ương không phân bổ kinh phí đầy đủ cho việc bảo vệ nạn nhân, khuyến khích chính quyền cấp tỉnh sử dụng ngân sách riêng của tỉnh cho các chương trình chống buôn người nhằm tiếp tục phân cấp trách nhiệm này cho địa phương, và dựa chủ yếu vào xã hội dân sự để cung cấp các dịch vụ bảo vệ nạn nhân với sự hỗ trợ hạn chế bằng hiện vật. Tháng 12 năm 2019, chính phủ khẳng định nạn nhân có quyền được có đại diện pháp lý, và tháng 1 năm 2020, chính phủ đã tăng cường trợ giúp nạn nhân một cách đáng kể bằng việc gia hạn từ hai tháng lên ba tháng khoảng thời gian nạn nhân được phép ở trong các cơ sở hỗ trợ nạn nhân, và tăng hỗ trợ tài chính đối với một số nhu cầu cơ bản thiết yếu.

Chính phủ tiếp tục vận hành 94 trung tâm bảo trợ xã hội hoặc trung tâm dịch vụ xã hội, một số trung tâm được tài trợ bởi các tổ chức phi chính phủ, nhằm trợ giúp nạn nhân trên cả nước, nhưng không có trung tâm nào cung cấp các dịch vụ dành riêng cho nạn nhân là nam giới hoặc trẻ em. Chính phủ không công bố liệu chính phủ đã khắc phục vấn đề trong các báo cáo trước đây về việc các cán bộ chính quyền địa phương và cấp tỉnh có các hành động mà có thể gây sang chấn tâm lý trở lại cho nạn nhân, chẳng hạn như hạn chế tự do đi lại của những người sống trong cơ sở tạm lánh.

Tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân tối cao ban hành hướng dẫn bổ sung về trình tự xét xử các vụ án liên quan đến nạn nhân bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi, trong đó bao gồm các nạn nhân buôn người. Hướng dẫn đưa ra các biện pháp bảo vệ mới đối với nạn nhân, ví dụ phân công thẩm phán có kinh nghiệm giải quyết vụ án và hạn chế sử dụng lời khai trực tiếp của nạn nhân. Tháng 12 năm 2019, văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực, điểm mới của văn bản này là bảo đảm rằng nạn nhân buôn người có quyền được có đại diện pháp lý. Luật quy định về bồi thường cho nạn nhân, và chính phủ công bố các nạn nhân đã nhận được tiền bồi thường trong 16 trên tổng số 20 vụ án về buôn người được công bố công khai trong năm qua.

Chính phủ vẫn duy trì các tùy viên lao động tại các cơ quan ngoại giao ở những nước có số lượng lớn người lao động di trú Việt Nam theo hồ sơ như Nhật Bản, Malaysia, Ả rập Xê út, Hàn Quốc, Đài Loan và Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE). Các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài này có thể cung cấp nhu yếu phẩm, dịch vụ vận chuyển và chăm sóc y tế cho công dân Việt Nam là nạn nhân của buôn người ra nước ngoài. Chính phủ công bố đã cho hồi hương 51 nạn nhân Việt Nam và trợ giúp 331 nạn nhân khác ở nước ngoài (con số tương ứng năm 2018 là 386 nạn nhân và năm 2017 là 138 nạn nhân). Theo báo cáo trước đây, một số viên chức ngoại giao không được đào tạo đầy đủ để hỗ trợ nạn nhân một cách thích hợp, và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã từng báo cáo rằng một số cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài đã không đáp lại các nỗ lực của chính phủ nước ngoài và tổ chức phi chính phủ trong việc kết nối các cơ quan này với nạn nhân Việt Nam. Chính phủ khuyến khích các nạn nhân buôn người hỗ trợ trong các quy trình tố tụng tư pháp chống lại bọn buôn người và có một số biện pháp bảo vệ và đền bù cho họ. Pháp luật bảo vệ các nạn nhân không bị truy tố về những hành vi bất hợp pháp mà bọn buôn người đã ép buộc họ phải thực hiện; tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ trước đây báo cáo rằng các nạn nhân thường ít có khả năng khai báo về việc họ bị lạm dụng trong quy trình tố tụng tư pháp do lo sợ rằng họ có thể bị bắt hoặc bị trục xuất vì vượt biên không có giấy tờ. Xã hội dân sự đã từng báo cáo rằng các nạn nhân Việt Nam di cư bằng các phương tiện không chính thức, đã dính líu vào hoạt động phạm tội do họ trở thành nạn nhân buôn người, hoặc đã từng chỉ trích chính phủ Việt Nam lo sợ bị nhà chức trách Việt Nam trả thù. Những nạn nhân này ít có khả năng hơn trong việc tìm kiếm sự hỗ trợ, và dễ trở thành nạn nhân buôn người một lần nữa. Các quan sát viên quốc tế trước đây cho biết các quan chức chính phủ thường đổ lỗi cho công dân Việt Nam về tình trạng họ bị bóc lột ở nước ngoài hoặc cho rằng các nạn nhân đã thổi phồng việc họ bị lạm dụng để tránh bị truy cứu về các vi phạm pháp luật xuất nhập cảnh. Chính phủ không công bố việc cho các nạn nhân nước ngoài các lựa chọn pháp lý thay thế cho việc rời khỏi nước mà họ phải đối mặt với sự trả thù hay khó khăn.

PHÒNG NGỪA

Chính phủ đã tăng cường các nỗ lực phòng ngừa tình trạng buôn người. Ban chỉ đạo do một phó thủ tướng làm trưởng ban, bộ trưởng và một thứ trưởng Bộ Công an làm phó ban, tiếp tục chỉ đạo công tác chống buôn người của Việt Nam. Trong kỳ báo cáo này, chính phủ tiếp tục thực thi giai đoạn 3 Kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn người 2016-2020; tiếp tục đánh giá 5 năm thực hiện các tiêu chuẩn thực thi Kế hoạch hành đồng quốc gia, trong đó có việc tham vấn một số nhóm xã hội dân sự và bắt đầu soạn thảo kế hoạch hành động quốc gia trong giai đoạn tiếp theo 2021-2025. Chính phủ không công bố những đánh giá này với công chúng. Việc thiếu sự phối hợp giữa các bộ nhìn chung đã cản trở việc thực thi hiệu quả. Bộ Ngoại giao tổ chức các khóa đào tạo cho gần 300 viên chức ngoại giao và lãnh sự về phòng ngừa nạn buôn người và bảo vệ nạn nhân, trong đó có người lao động di trú. Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cùng với các cán bộ cấp tỉnh, huyện và xã, tiếp tục tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức trên quy mô lớn, phản ánh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức trong kế hoạch hành động quốc gia. Một số nỗ lực nâng cao nhận thức tập trung vào các nhóm nguy cơ cao như người lao động nữ di trú và lao động nông nghiệp, công nhân xây dựng và các cộng đồng đưa người lao động di trú ra nước ngoài, các trường học ở các cộng đồng có nguy cơ cao. Các nỗ lực nâng cao nhận thức khác có tính chất chung hơn, bao gồm việc phát hàng nghìn tờ rơi, bài báo, báo cáo, cũng như một số phóng sự truyền hình và phim tài liệu. Có các nỗ lực đáng kể trong việc nâng cao nhận thức ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm 17.890 buổi tuyên truyền cho công chúng với gần 2,5 triệu người tham dự về các chủ đề như phòng ngừa nạn buôn người trong học sinh sinh viên, phụ nữ di cư để kết hôn ở nước ngoài, trẻ em sử dụng internet. Bộ Lao động, thương binh và xã hội (Bộ LĐ, TB và XH), với kinh phí được tài trợ, vận hành đường dây nóng hoạt động 24/24 giờ dành cho các nạn nhân buôn người và nạn nhân của các tội phạm khác; nhà chức trách công bố đã nhận được khoảng 2.520 cuộc gọi đến đường dây nóng trong năm 2019 (con số tương ứng năm 2018 là 2.010 cuộc gọi và năm 2017 là 2.700 cuộc gọi). Cơ quan này đã chuyển 35 vụ việc cho các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dịch vụ của nhà nước (con số tương ứng năm 2018 là 30 vụ việc và năm 2017 là 65 vụ việc). Nhờ chuyển vụ việc, chính quyền đã xác định được 12 nạn nhân buôn người. Chính phủ tiếp tục hỗ trợ tiếng Anh và một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số trên đường dây nóng.

Quốc hội thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động vào tháng 11 năm 2019, luật này có hiệu lực từ tháng 1 năm 2021 và quy định việc thành lập tổ chức công đoàn độc lập, mở rộng phạm vi bảo vệ của pháp luật đối với người lao động không có hợp đồng lao động. Với sự hỗ trợ của một tổ chức quốc tế, chính phủ trình Quốc hội dự thảo luật sửa đổi, bổ sung luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; dự thảo luật này vẫn chưa được thông qua tại thời điểm kết thúc kỳ báo cáo.

Theo báo cáo, các công ty tuyển dụng lao động, hầu hết có liên hệ với các doanh nghiệp nhà nước, và các bên môi giới không có giấy phép đã thu phí của người lao động tìm kiếm việc làm ở nước ngoài với mức cao hơn so với mức luật cho phép. Nhiều người lao động bị mắc nợ nần nhiều và có nguy cơ cao hơn bị trở thành lao động cưỡng bức, trong đó có việc bị ép buộc lao động để trừ nợ. Năm 2019, Bộ LĐ, TB và XH đã thanh tra 55 doanh nghiệp đưa người lao động đi nước ngoài, xử phạt hành chính 21 doanh nghiệp lên đến gần 1,5 tỷ VNĐ ($64.740), rút hai giấy phép và giải quyết 120 đơn khiếu nại về dân sự, tất cả đều liên quan đến lao động di trú (con số này năm 2018 là 91 vi phạm). Bất chấp những nỗ lực này, cộng với những chuẩn mực về văn hóa hoặc sự kỳ thị xã hội mà có thể cản trở việc nạn nhân tự xác định mình là nạn nhân buôn người, tiếp tục có các báo cáo về việc người lao động di cư dễ có nguy cơ bị cưỡng ép lao động để trừ nợ. Sự cưỡng ép này diễn ra với thủ đoạn yêu cầu người lao động thanh toán phí tuyển dụng và các khoản phí liên quan và sử dụng các thủ đoạn tuyển dụng lao động di cư không thường xuyên, trong đó có lao động làm việc trên các tàu đánh cá của Đài Loan hoặc các trang trại trồng cần sa ở Anh. Bộ LĐ, TB và XH đã phân phát hàng nghìn cuốn số tay về các quyền lợi pháp lý và khung khổ pháp luật bảo vệ người lao động di trú. Trong kỳ báo cáo, Bộ cũng đã ký kết 9 thỏa thuận về lao động di trú nhằm ngăn chặn tình trạng buôn người, trong đó có 8 thỏa thuận với Chính phủ Nhật Bản về công nhân kỹ thuật lành nghề và thực tập sinh, và 1 thỏa thuận với Chính phủ Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất về người lao động giúp việc gia đình. Đây là bước tiếp theo Biên bản ghi nhớ về hợp tác với Chính phủ Nhật Bản trong năm 2017 nhằm tăng cường bảo vệ công dân Việt Nam tham gia Chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ thuật của Nhật Bản (TITP) trong bối cảnh vẫn tiếp tục có các báo cáo về tình trạng bóc lột nghiêm trọng người lao động Việt Nam. Các tổ chức phi chính phủ và truyền thông ở Nhật Bản đã từng báo cáo về việc người lao động Việt Nam trả $7.000 cho bên thứ ba môi giới ở Việt Nam trước khi tham gia chương trình TITP và sau đó thường phải trả $4.000 đến $5.000 nếu họ vi phạm hợp đồng, tự khiến họ rơi vào tình trạng buộc phải lao động để trừ nợ. Chính phủ tiếp tục các nỗ lực giảm nhu cầu mua dâm. Xã hội dân sự báo cáo rằng chính phủ hiếm khi truy tố các vụ du lịch tình dục trẻ em. Chính phủ không thực hiện các biện pháp từ chối nhập cảnh đối với những người Mỹ đã từng phạm tội về tình dục.

THỰC TRẠNG BUÔN NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Như đã báo cáo trong 5 năm qua, bọn buôn người bóc lột các nạn nhân trong nước và nước ngoài ở Việt Nam và bóc lột các nạn nhân từ Việt Nam đi ra nước ngoài. Đàn ông và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài để lao động không chính thức hoặc thông qua các công ty tuyển dụng lao động của nhà nước hoặc các công ty tuyển dụng lao động do nhà nước quản lý. Một số công ty tuyển dụng không đáp lại các yêu cầu trợ giúp của người lao động trong những trường hợp họ bị bóc lột, và một số công ty thu phí quá cao khiến cho người lao động dễ bị rơi vào tình trạng buộc phải lao động trừ nợ.

Bọn buôn người biến các nạn nhân trở thành đối tượng của cưỡng bức lao động trong các ngành xây dựng, ngư nghiệp, nông nghiệp, khai thác mỏ, công nghiệp hàng hải, khai thác gỗ và công nghiệp chế tạo, chủ yếu ở Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, Nhật Bản, và một số vùng ở châu Âu và Vương quốc Anh với mức độ ít hơn (ví dụ trong các cửa hàng làm móng và các trang trại trồng cần sa).

Ngày càng có nhiều báo cáo về nạn nhân buôn người là người lao động Việt Nam ở châu Âu lục địa, Trung Đông, và trong các ngành công nghiệp hàng hải Thái Bình Dương. Các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn của Việt Nam và Trung Quốc ở các nước láng giềng như Lào có thể bóc lột người lao động Việt Nam và nước ngoài. Bọn buôn người bóc lột phụ nữ và trẻ em Việt Nam là nạn nhân của tình trạng buôn bán nô lệ tình dục ra nước ngoài; nhiều người bị lừa gạt về các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc, Campuchia, Lào và các nước châu Á khác. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn theo môi giới quốc tế hoặc để làm việc trong các nhà hàng, cơ sở mát-xa, quán bar karaoke—ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Ả rập Xê út, Singapore, và Đài Loan—trở thành nô lệ giúp việc gia đình hoặc nô lệ tình dục. Bọn buôn người ngày càng gia tăng sử dụng internet, các trang web chơi game và đặc biệt là mạng xã hội để nhử các nạn nhân, lan rộng hoạt động buôn người, và kiểm soát nạn nhân bằng cách hạn chế họ truy cập mạng xã hội, mạo danh họ phát tán thông tin sai lệch trên mạng. Đàn ông thường dụ dỗ phụ nữ trẻ và trẻ em gái vào các mối quan hệ hẹn hò trên mạng và thuyết phục họ ra nước ngoài, sau đó biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc nô lệ tình dục. Một số kẻ buôn người đăng hình ảnh của mình giống như cảnh sát trên mạng xã hội để chiếm được lòng tin của nạn nhân. Trong quá trình di cư, các băng nhóm tội phạm ở châu Âu và bọn buôn người thường bóc lột nạn nhân Việt Nam dưới hình thức cưỡng bức lao động hoặc bóc lột tình dục trước khi nạn nhân đến được đích cuối cùng.

Ở trong nước, bọn buôn người đôi khi chính là cha mẹ, thành viên trong gia đình, hoặc các mạng lưới buôn người quy mô nhỏ, bóc lột đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam—trong đó có trẻ em lang thang và trẻ em khuyết tật—biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động, mặc dù có rất ít thông tin về các vụ việc này. Một nghiên cứu cho thấy 5.6% trẻ em Việt Nam có thể đã từng bị cưỡng bức lao động hoặc bóc lột có dấu hiệu của buôn người hoặc trong bối cảnh di cư, trong đó trẻ em nông thôn và các cộng đồng nghèo đói có nguy cơ đặc biệt cao. Bọn buôn người bóc lột trẻ em và người đã thành niên dưới hình thức cưỡng bức lao động trong ngành may mặc, tại đó công nhân bị ép buộc làm việc thông qua hình thức đe dọa và hăm dọa. Có các báo cáo về việc trẻ em 6 tuổi đã phải làm nghề may dưới các điều kiện cưỡng bức lao động trong các cơ sở may mặc nhỏ thuộc sở hữu tư nhân và trong các xưởng không chính thức, và trẻ em 12 tuổi đã phải làm việc khi đang bị tạm giữ trong các trung tâm cai nghiện của nhà nước. Bọn buôn người ép buộc trẻ em hành nghề bán rong và ăn xin trên đường phố ở các trung tâm đô thị lớn. Bọn buôn người biến một số trẻ em trở thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc lao động để trừ nợ trong các nhà máy gạch, các gia đình ở đô thị và các mỏ vàng ở nông thôn do tư nhân khai thác. Bọn buôn bán nô lệ tình dục nhắm mục tiêu vào nhiều trẻ em đến từ các vùng nông thôn nghèo và ngày càng nhiều phụ nữ đến từ tầng lớp trung lưu và khu vực đô thị. Bọn buôn người cũng ngày càng gia tăng bóc lột trẻ em gái thuộc các cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, bao gồm bóc lột nô lệ tình dục và nô lệ giúp việc gia đình, bằng cách lợi dụng tập quán bắt cóc cô dâu truyền thống để thực hiện hoạt động tội phạm của chúng. Khách du lịch tình dục trẻ em, theo báo cáo đến từ châu Á, Vương quốc Anh và các nước khác ở châu Âu, Australia, Canada và Hoa Kỳ, bóc lột trẻ em ở Việt Nam. Chính phủ Bắc Triều Tiên có thể đã cưỡng bức người lao động Bắc Triều Tiên làm việc ở Việt Nam.

Năm 2019, chính phủ công bố đã chấm dứt tình trạng cưỡng bức lao động đối với người sử dụng ma túy trong 105 trung tâm cai nghiện. Một điều luật năm 2014 yêu cầu phải có trình tự tố tụng tư pháp trước khi tạm giữ người sử dụng ma túy trong các trung tâm cai nghiện bắt buộc và người bị tạm giữ chỉ phải làm việc tối đa bốn giờ một ngày. Đã có các báo cáo trước đây về việc tù nhân, trong đó có những người bất đồng chính kiến về chính trị và tôn giáo, bị cưỡng bức lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành nghề độc hại như chế biến hạt điều.

Các cán bộ nhà nước Việt Nam, chủ yếu ở cấp xã và thôn, đồng lõa và giúp sức cho việc buôn bán hoặc bóc lột nạn nhân bằng cách nhận hối lộ của bọn buôn người, bỏ qua các dấu hiệu cảnh báo buôn người, và moi tiền để đổi lấy việc nạn nhân được đoàn tụ với gia đình.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: