Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trợ giúp:Thêm văn kiện”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tranminh360 (thảo luận | đóng góp)
Đã lùi lại sửa đổi 53246 của 119.160.119.87 (Thảo luận)
Dòng 43:
 
</div>
[[Thể loại:TrợThơ giúpHoàng trần Cương]]
THƠ HOÀNG TRẦN CƯƠNG.
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 01/09/2009 23:35
Tác giả: Nguyễn Trọng Tạo
 
Hoàng Trần Cương sinh ngày 30- 7- 1948 tại xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp Đại học Tài chính - Kế toán 1970, anh trở thành người lính chiến đấu ở chiến trường. Sau ngày nước nhà thống nhất, 1975, anh chuyển ngành làm chuyên viên kế toán, rồi làm Tổng biên tập Thời báo Tài chính Việt Nam. Anh khởi nghiệp văn chương bằng văn xuôi và từng đọat giải A của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 1970-1972. Anh đã cho xuất bản các tập thơ Đường chân trời (1989), Dấu vết tháng ngày (1991), Bóng cỏ (1996), Quà tặng hành tinh (2000) và trường ca Trầm tích (2000). Các giải thưởng thơ: Giải Nhất báo Văn Nghệ (1989-1990), Giải C Bộ Quốc phòng (1995-2000), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (2001). Hoàng Trần Cương là một nhà thơ đậm đặc khí chất dấn thân bạo liệt và trữ tình của một người trai Nghệ, yêu quê như keo dính, yêu người đến quên mình. Đây cũng là tính cách của người dân nơi miền quê khổ nghèo rát bỏng nắng gió mùa hè, xiết chảy những dòng sông ngập tràn mùa lũ. Chính vì vậy mà thơ của anh thường vạm vỡ, khoẻ mạnh và cuộn trào tuôn chảy, chứa đầy sự sống.
[[pl:Wikiźródła:Jak tworzyć nowe strony]]
Vào siêu thị mua một nỗi nhớ hình vuông
Bóc bánh chưng ra ngỡ ai lột áo mình.
(Nỗi nhớ hình vuông)
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành giải lụa sông Lam
(Miền Trung)
Những hình ảnh trong thơ anh thường độc đáo, góc cạnh, bất ngờ: gọi bánh chưng là nỗi nhớ hình vuông, ví miền Trung với cật nứa thì thật là táo bạo. Lạ lẫm chưa từng thấy. Nó khác với lối thơ của những người tỉa tót chữ nghĩa. Lối tư duy của Hoàng Trần Cương là lối tư duy thẳng vào thơ, chứ không láng cháng bên ngoài thơ như không ít người làm thơ vẫn lầm tưởng. Ngay cả những câu thơ tưởng chừng như lắm chữ của anh cũng đều thăng hoa từ cội nguồn sự sống: Em ngang qua chiều / Nắng thơm mùi rượu / Mắt sông / Môi lửa / Gió lên đồng... hoặc: Xa nhà đến cả gió / Cũng lần hồi lang thang, v.v...
Ấn tượng và tưởng tượng là cơ sở của thi ca. Ấn tượng cắm vào cân não và tưởng tượng chính là sợi dây nối gió cho cánh diều thi ca bay lên. Thơ Hoàng Trần Cương thường được khởi ra từ những ấn tượng làng quê, hay nói cách khác là anh thường nhìn thế giới bằng con mắt của người quê, một người quê đích thực, vừa nhân hậu nghĩa tình, vừa ngang tàng chính trực. Và trí tưởng tượng đã giúp anh xâu chuỗi những hình ảnh đầy thân thương về người mẹ làng quê với những hoàng hôn cày ruộng, thóc rúc về nhà, nồi đội vung hể hả để chợt nhận ra:
Ngấn nước mắt của mẹ rẽ vào nỗi nhớ của con
Lật đật suốt đời nỗi nhớ lon ton...
(Khoảng vắng)
hay về người cha với phác hoạ Chân dung đầy ấn tượng:
Cha tôi
Huyết thống tổ tiên trích ngang bản mặt
Trán rộng cộm nỗi đau
Rụa ràn cơn sóng đất...
 
Và một trạng thái buồn lạ lẫm khi vắng em:
Mặt anh buồn như đá
Ai vứt ra ngoài đồng.
Hình ảnh làng quê luôn hiển hiện và day dứt trong thơ Hoàng Trần Cương. Những luống cày, luỹ tre, những nón mê, vại nhút, những gốc rạ, đụn rơm... cứ ẩn náu khôn nguôi trong hồn người thi sĩ. Và không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh làng quê thường được anh sử dụng đắc địa với ý nghĩa khái quát cao nên dễ gây ấn tượng mạnh cho người đọc:
Anh nâng đôi đũa tre
Chợt gắp được nước mắt người xa xứ
.....
Anh bưng chiều Tất niên đặt ngay ngắn lên bàn thờ Tiên Tổ
Nghe đáy lòng lóng ngóng tiếng đũa tre.
(Đũa tre)
Có lẽ nghề nghiệp tài chính kế toán có ảnh hưởng tới tư duy thơ ca của Hoàng Trần Cương. Nhiều cặp câu thơ đăng đối khá tự nhiên. Và cả những con số cũng nhảy vào thơ anh tự nhiên và máu thịt: "Những chuỗi số khô khan / Sao đọc lên lại trào nước mắt?". Điều ấy chứng tỏ thơ là người, một con người đầy trách nhiệm công dân mà vẫn thường đa sầu đa cảm.
Ngoài thơ ngắn, Hoàng Trần Cương được biết tới như một "nhà trường ca" ấn tượng trong thơ Việt cuối thế kỷ XX, với những Trầm tích, Đỉnh Vua, Long mạch, v.v... Ở thể loại trường ca, ngòi bút của anh tung hoành, biến hoá mạnh mẽ nhằm khai thác những vỉa tầng thăm thẳm của lịch sử quê hương và sự thăng trầm của hồn người. Có thể nói, anh là nhà thơ thành công nhất về mảnh đất và con người xứ Nghệ qua thể loại trường ca. Danh hiệu "nhà thơ viết bằng tiếng Nghệ" dành cho anh là một vinh dự hiếm có. Nhưng có lẽ sự thành công riêng biệt tạo nên phong cách Hoàng Trần Cương lại chính là thi pháp động của thơ anh. Chưa thấy ai dùng nhiều động từ trong thơ như Hoàng Trần Cương: Rơm vàng đơm nắng trên đê/ Rơm vàng nhảy lò cò với cỏ/ Rơm vàng nguýt lườm lũ nhỏ/ Cơm mới nức thơm cười trắng vung nồi. Thậm chí có câu thơ xuất hiện cả hai động từ thật là lý thú:
Mượn khói thuốc lào chườm nỗi xót xa/ Và thả xuống sông đống ưu tư để tống khứ bao trưa chiều mệt lử.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, sự xuất hiện động từ ở tần số cao chính là một đặc điểm của thi pháp thơ hiện đại. Thi pháp động Hoàng Trần Cương là một đóng góp đáng kể cho nghệ thuật thơ ta trong những năm gần đây.
Hoàng Trần Cương thuộc thế hệ thơ chống Mỹ, nhưng thơ anh xuất hiện vào thời hậu chiến. Những "trầm tích" dồn nén thi ca từ chiến tranh đã phát lộ một nhà thơ Hoàng Trần Cương cuối thế kỷ XX, và vẫn còn sung sức bước vào ngưỡng cửa thế kỷ mới.
 
Hà Nội, giáp Tết Con Gà 2005
TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG - SỐ 133 (THÁNG 3)
Hoàng Trần Cương - Trầm tích miền Trung
10:52 | 16/03/2010
ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...
Nhà thơ Hoàng Trần Cương - Ảnh: vnca.cand.com.vn
Sau 2 tập thơ: Đường chân trời (Nxb Trẻ, 1989), Dấu vết tháng ngày (Nxb Hội Nhà văn, 1991), vừa qua tháng 10/1999 Hoàng Trần Cương đã cho ra mắt cùng một lúc 2 tập nữa là Trầm tích và Quà tặng hành tinh. Như vậy sau 8 năm trầm tích anh mới lại có dịp đem đến cho công chúng yêu thơ một món ăn tinh thần rất Hoàng Trần Cương.
Trầm tích là trường ca đã từng đoạt giải nhất cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ năm 1989 - 1990 cùng với hai bài thơ Vết rạn chân chim và Dấu vết tháng ngày in trong tập năm 1991 của Hoàng Trần Cương. Trước đây anh mới chỉ cho in rải rác một số chương. Lần này anh đã cho công bố trọn vẹn trường ca Trầm tích gồm 19 chương với gần 2.000 câu thơ và một tập thơ lẻ Quà tặng hành tinh gồm 45 bài. Có những bài anh mới viết trước lúc bản thảo được đưa đến nhà in và cả những chương trước đây đã được công bố trên các sách báo, đến lần in này anh đã sửa chữa, bổ sung đáng kể và cấu trúc lại theo một ý tưởng mới và mỗi chương có một tên riêng.
 
Trước khi đến với thơ, đầu những năm 1970, khi còn là người lính của binh chủng Phòng không, Hoàng Trần Cương anh đã có mặt ở nhiều chiến trường và đã viết khá nhiều truyện ký và truyện ngắn, có truyện đã đoạt giải A cuộc vận động sáng tác về lực lượng vũ trang 1970 - 1972 của tạp chí Văn nghệ Quân đội *. Như vậy ở cả hai lĩnh vực văn xuôi và thơ, với gần 30 năm cầm bút, anh đã có những thành công và đóng góp nhất định cho văn học nước nhà.
Âm hưởng chủ đạo toát lên từ các tập thơ của Hoàng Trần Cương là sự trăn trở, nỗi buồn khôn nguôi khi còn chưa báo đáp được ân nghĩa với quê hương. Người đọc như thấy anh luôn tự đặt cho mình một trách nhiệm là phải làm một điều gì đó cho đất nước, quê hương, cho con người và mảnh đất xứ Nghệ - miền Trung quê anh, và suốt đời anh đau đáu kiếm tìm điều ấy. Ước vọng đó luôn chất chứa và bị kìm nén lại trong anh như đá núi Trường Sơn trầm tích nắng mưa, đến mức không còn cách nào khác tự nó đã là thơ rồi.
 
Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành. Hơn ai hết anh là người hiểu rất rõ mảnh đất miền Trung là chiếc đòn gánh tre oằn trên vai mẹ suốt đời khốn khó gánh trọn hai đầu đất nước với những đợt gió Lào bỏng rát và những trận lũ quét đã từng cuốn trôi bao đồng loại, cùng những ngôi nhà, mái trường, ngõ phố từng thấm đầm bao mồ hôi, nước mắt và có khi là cả mạng sống của con người nơi đây mới có được. Phải chăng vì thế mà trách nhiệm lịch sử của nó càng thêm nặng nề và lớn lao hơn:
 
Ôi quê hương
Cái đòn gánh trĩu hai đầu đất nước
(NGUỒN CỘI - TRẦM TÍCH)
 
Nhưng cớ sao trời đất lại thù oán và bất công đối với con người và mảnh đất miền Trung quê anh đến như vậy:
 
Gió bão thù chi với mảnh đất này
Nối đuôi nhau xếp hàng ngang đen xì ngoài biển
Mưa giờ ngọ chưa qua gió giờ mùi đã đến
Cay đắng lắng vào quả ớt lúc còn xanh
Đất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh
Ngẩng mặt đụng trời xanh nhức mắt
(NGUỒN CỘI - TRẦM TÍCH)
 
Cái đói, cái nghèo không phải là chuyện mới mẻ gì trong cuộc sống của những người nông dân Việt Nam, nhưng đối với những con người miền Trung bao giờ nó cũng dữ dằn và nhức buốt tận gan ruột. Quanh năm suốt tháng cày sâu cuốc bẫm, một nắng hai sương mà vẫn đói, vẫn nghèo thì có phải là tạo hóa đã bất công?
 
Dằng dặc dải làng quê thưa thắt
Những vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạp
Chỏng chơ nồi cơm ngày đói khát
Tảng cháy cạy đi rồi
Còn hằn vết móng tay
Cày lên
Sưng cả đáy nồi
(NGUỒN CỘI - TRẦM TÍCH)
 
Hoàng Trần Cương không ngại ngần, giấu giếm cái đói cái nghèo của quê anh. Ngược lại anh rất tự hào và thẳng thắn nói ra điều ấy. Ai yêu và chấp nhận anh thì phải biết rằng quê anh không phải là mảnh đất mộng mơ và dễ dàng làm ăn sinh sống. Trái lại tai họa luôn ùn ùn kéo đến đè lên kiếp người. Đến nỗi câu hát ví dặm từ ngàn xưa cũng phải nhọc nhằn bới lên vùi xuống, sàng đi sẩy lại năm lần bảy lượt để rồi khi nghe luôn cảm thấy day dứt quặn lòng:
 
Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm...
 
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo cũng mọc trắng mặt người
(MIỀN TRUNG - TRẦM TÍCH)
 
Miền Trung là thế đó! Nếu ai không tin xin hãy một lần trải nghiệm.Sự nghiệt ngã của thiên nhiên nơi đây hàng bao đời nay càng làm lắng sâu thêm trong họ nghĩa đời, đạo người. Nhìn bề ngoài không dễ mấy ai nhận ra được nỗi u buồn sâu thẳm kết đọng sau nét mặt của người con trai miền Trung buồn như đábị ai đó vứt ra ngoài đồng. Lầm lì và buồn thảm đến thế là cùng. Nhưng ẩn sau những khuôn mặt ấy lại là những tấm lòng rất trọng đạo lý và nghĩa tình. Họ sẵn sàng xả thân vì sự sống còn của quê hương đất nước cả khi địch họa lẫn lúc thiên tai. Trận lũ lụt vừa qua đã tràn ngập miền Trung không khỏi làm nhà thơ đau đớn và anh đã từng thức trắng đêm khi nhìn thấy bà con mình đang quật nhau với lũ. Hình như cứ mỗi lần lũ đến miền Trung là một nhát dao chích vào làm tim anh nhói đau. Bài thơ Đầy tràn miền Trung (Tuần báo Văn nghệ) và bài Lộ thiên (Báo QĐND) mới in gần đây là nỗi niềm riêng của một người con miền Trung:
 
Cái lũ lụt cứ tống vào tôi tất
Giông bão ơi cứ nhè tôi mà quật...
Miễn là xả đều khắp ngả
Miễn là buông thả miền Trung...
Tội tình chi giông lại gồng theo bão
Tươm tướp ngày đêm đánh đáo mảnh đất nghèo...
Tôi là con của Mẹ
Tôi đầy tràn miền Trung
(ĐẦY TRÀN MIỀN TRUNG)
 
Chỉ có những người nặng nghĩa sinh thành với miền Trung như Hoàng Trần Cương mới có thể viết được những câu thơ cháy lòng đến như vậy. Cùng với Trầm tích, những bài thơ gần đây nhất của anh hình tượng người Mẹ miền Trung luôn nổi lên giữa bức tranh hoành tráng như là hiện thân của sự gian khổ, hy sinh suốt đời, nhưng vẫn một mực thương chồng thương con. Đọc những vần thơ miền Trung của Hoàng Trần Cương ta thấy dường như những người mẹ ở đây sinh ra là để gánh chịu thiệt thòi, mất mát và hy sinh một cách âm thầm, không một lời oán trách, kêu than. Mẹ cứ sống như những gì đã và cần sống cho cõi đời này. Khi lũ lụt ập vào nhà thì:
 
Treo vội con lên chạn
Mẹ xắn quần đi giằng lại cái xanh đồng sứt quai
Theo nước lũ nhoai ra ngoài ngõ
Rồi một tay chắn gió
Mẹ ngồi nhen lửa dưới mưa
Nuôi tôi giữa nước và trời
(CẬT TRE - TRẦM TÍCH)
 
Thật cảm động và đáng khâm phục biết bao những người mẹ vừa quả cảm, không sợ lũ lụt thiên tai, nhưng lại vừa biết chắt chiu, quý trọng những cái do chính bàn tay lao động của mình làm ra, tiết kiệm đến mức:
 
Cái nón mê mẹ đội nửa đời người
Khi chóp thủng lại trùm lên vại nhút
(THÓC GIỐNG - TRẦM TÍCH)
 
Bằng những việc làm thường nhật, mẹ đã nhóm lên trong tâm khảm những đứa con yêu của mình đạo lý uống nước nhớ nguồn. Hơn ai hết, mẹ hiểu rằng con người muốn đi xa bay cao thì phải bám chắc vào cội rễ, không bao giờ được quên nơi chôn rau cắt rốn và những người đã nặng công sinh thành:
 
Một năm đôi lần về viếng mộ tổ tiên
Đốt nén hương thơm khấn cầu làng cũ
(NHỮNG VIÊN ĐÁ LẺ - TRẦM TÍCH)
 
Và càng không bao giờ được đùa giỡn, mỉa mai hay quay lưng lại với quá khứ đói nghèo, lam lũ và đau thương của chính mình và của đồng bào mình.Chính quá khứ ấy đã hun đúc và tạo dựng ở mẹ lòng vị tha và sự nhân hậu đối với con người trong những khi khốn khó. Thiết nghĩ những lời nhắn gửi của nhà thơ đối với những ai đang sống cho hôm nay và cho mai sau không bao giờ thừa:
 
Thôi thì đành sống chung với lũ
Thôi thì đành nhịn nhường nhau mà dỡ rào mở lối
Sông có phận sông
Người có cõi người
Mắc mớ chi mà tính toan hoán đổi
Mắc mớ chi mà sấp mặt tối mày
(TẢO MỘ - TRẦM TÍCH)
 
Mẹ cần mẫn như con ong cái kiến, xuyên thời gian và xuyên cả không gian. Với mẹ dường như chẳng có cái gì là khó khăn, cực nhọc vì đã bao giờ mẹ sống cho riêng mình. Tấm lòng vị tha hỷ xả như Đức Phật từ bi của mẹ đối với con, với đời, thì dù có hy sinh cả thân mình cũng chẳng thấm vào đâu:
 
Đói khát chen nhau gầy rạc lời ru
Nuốt lống ngày vui có giấc mơ năm ngoái
(NHỮNG VIÊN ĐÁ LẺ - TRẦM TÍCH)
 
Những người mẹ như thế ắt phải sinh ra những đứa con vác gươm múa khắp làng từ tuổi ấu thơ, để rồi khi lớn lên rong ruổi khắp rừng sâu núi thẳm, sợ chi thiên tai hay địch họa.
 
Người lính cũng là một chủ đề nổi trội trong suốt cả 4 tập thơ và cả chặng đường gần 30 năm cầm bút của Hoàng Trần Cương. Anh đã cảm thông sâu sắc và sẻ chia với nhưng mất mát hy sinh của họ. Đó những người lính ra đi hết thời trai trẻ đã không thể trở về hoặc có trở về thì người yêu đã đi lấy chồng. Nhưng nào các anh có oán trách, đòi hỏi gì đâu. Ngược lại họ chỉ bần thần ngơ ngác và thầm thán phục, cảm ơn đến mức không thể ngờ được rằng người yêu của mình vẫn một lòng thủy chung chờ đợi. Đọc đoạn thơ này ta có cảm giác nhà thơ hoàn toàn bất lực trước tấm lòng thủy chung chờ đợi của người yêu, đến mức anh không còn cách nào khác là để cho nguồn mạch xúc cảm tự nhiên tuôn trào và chỉ có thể buông những câu thơ xuất thần đến như vậy:
 
Từ mặt trận trở về
Không thể ngờ em còn đứng đợi
Tóc em xanh như trời
Tôi ngơ ngác đi qua
(MƯA ỐC ĐẢO - TRẦM TÍCH)
 
Thơ Hoàng Trần Cương mỗi nơi, môi lúc là một tâm trạng, cảnh huống riêng biệt độc đáo không hề bị lặp lại. Hình ảnh người mẹ ăn sâu vào tâm trí nhà thơ ở hầu hết các chương trong Trầm tích và không một tập thơ nào mà anh không nhắc đến. Mẹ chính là điểm tựa cho những người con cất cánh bay xa, bay cao và cũng là đích cuối cùng để con hướng tới. Hình tượng người Mẹ trong thơ Hoàng Trần Cương chính là người Mẹ miền Trung trong những ngày tháng gian nan vất vả với những chiều kích cụ thể và mới mẻ.
 
Hoàng Trần Cương đã có những phát hiện táo bạo trong việc tạo dựng hình tượng cũng như cách sử dụng ngôn ngữ thơ. Hình tượng và ngôn ngữ thơ anh mộc mạc chân thành, tự nhiên tuôn chảy như dòng đời, kiếp người, vì thế nó đằm thắm, da diết có khi quặn đau cháy lòng. Những trải nghiệm cá nhân trong cuộc sống thường nhật của nhà thơ, bản thân nó đã tạo nên một phần máu thịt trong anh. Do vậy thơ anh là sự thăng hoa của những nỗi đau quằn quại, những khoảnh khắc giằng xé tâm trạng tưởng như ngoài thơ ra không thể có gì diễn tả hết được. Anh không câu nệ nhiều đến câu chữ, vần điệu mà luôn tôn trọng tiếng nói cuối cùng của ngôn ngữ đời sống. Thơ Hoàng Trần Cương trọng ở mạch nguồn tự nhiên, hơn là vần điệu, nên ít bay bổng điệu đà hay triết lý vòng vo như thơ của một số người khác. Chính vì thế nó lì lợm và xù xì như đá núi miền Trung trầm tích những nỗi đau rớm máu của kiếp người, nhiều đoạn đọc lên nghe đến sởn gai ốc:
 
Mặt anh buồn như đá
Ai vứt ra ngoài đồng
(ĐỢI - QUÀ TẶNG HÀNH TINH)
Hay
Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo toan, một miền khắc khoải
Nơi lưỡi cày vừa mới đi qua
Chiều đứng lặng nghe tiếng người cuối bãi
Trăng lại treo mơ mộng trước hiên nhà
(DẤU VẾT THÁNG NGÀY - QUÀ TẶNG HÀNH TINH)
 
Bạn đọc tìm đến thơ Hoàng Trần Cương là tìm đến những con người, sự việc, những tâm trạng, cảnh huống rất thực và phía sau đấy là những số phận trớ trêu và nghiệt ngã của bao kiếp người, là cuộc vật lộn hóa sinh không chỉ để tồn tại mà còn là để ngẩng cao đầu làm NGƯỜI. Là người đã từng bước ra từ cuộc vật lộn ấy, nên thơ anh là nhân chứng cho sự việc và con người thực đã sinh ra và lớn lên nơi mảnh đất đau thương và kiên cường - miền Trung.
 
Cho xuất bản Trầm tích và Quà tặng hành tinh lần này cùng với một số bài thơ viết lẻ về đề tài miền Trung, Hoàng Trần Cương đã giải quyết một cách dứt khoát vấn đề về mối quan hệ của thơ ca với những bài toán kinh tế và công việc của nhà quản lý. Không hề có sự đối lập tuyệt đối nào giữa các lĩnh vực đó, mà chỉ là độ chín muồi của tài năng nghệ thuật và những rung động thẩm mỹ sâu sắc được cất lên từ chiều sâu nhân bản của nhà nghệ sỹ trước những niềm vui và nỗi đau của đồng loại.
 
Mặt khác thơ anh cũng đã góp phần giải quyết một vấn đề thực tiễn của đời sống văn học nước ta hiện nay. Những tác động của kinh tế thị trường có làm cho công chúng không còn thì giờ và tâm huyết để đến với thơ ca nữa không? Theo chúng tôi thực chất vấn đề là chất lượng thơ ca hôm nay không đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của các thượng đế khó tính. Nó không đủ sức níu kéo công chúng lại phía mình, cũng giống như nhiều loại hình nghệ thuật nội hóa khác ở nước ta hiện nay. Lịch sử phát triển của văn học nghệ thuật đã chứng minh hùng hồn rằng ở mọi thời đại chỉ có những tác phẩm văn học nghệ thuật dở, chứ không hề có công chúng tồi.
 
Điểm cuối cùng là liệu nền kinh tế thị trường có phải là mảnh đất tốt cho trường ca hiện đại phát sinh và phát triển không hay nó chính là kẻ đào mồ chôn cảm hứng sáng tạo của nghệ sỹ đối với thể loại này như một số người đã nghĩ? Tất cả những điều tôi vừa phân tích trên chính là những yếu tố tạo nên những giá trị trầm tích của thơ Hoàng Trần Cương mà không phải ai cũng có thể có, nhưng lại ít được gió nghiên cứu, lý luận phê bình quan tâm đúng mức.
 
11-1999
Đ.N.Y
(133/03-2000)
 
---------------------------------------
* HẠNH PHÚC HÔM NAY, Ký sự, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1971 (in chung), BẦU TRỜI QUẢNG TRỊ, Truyện ngắn, Nxb Thanh niên, Hà Nội 1972 (in chung), DƯ ÂM, truyện ngắn, Nxb Lao động, Hà Nội, 1976 (in chung).
 
 
 
Nhà thơ Hoàng Trần Cương: Gắng gượng ngồi canh từng trang giấy
10:37 14/07/2016
Đối diện với di chứng của cơn tai biến, nhà thơ Hoàng Trần Cương bị liệt nửa người và phải vật lý trị liệu để mong cơ thể được bình thường trở lại nhưng ông vẫn minh mẫn nhận ra bạn bè, người thân, vẫn lẩm nhẩm đọc những câu thơ mới trên giường bệnh.
 
Nghe tin nhà thơ Hoàng Trần Cương bị tai biến trong lúc đang cùng cháu nội dạo chơi dưới sân khu chung cư, phải nằm viện mấy tháng nay, nhiều người không khỏi ngạc nhiên. Ngạc nhiên bởi ông vốn là một nhà thơ khỏe mạnh, ít khi thấy ông ốm vặt. Sức vóc của ông, như mạch nguồn sông Lam nơi mảnh đất Đặng Sơn, Đô Lương có đập Ba-ra quanh năm nước chảy cuộn trào.
Con người ông khảng khái, thô ráp, thậm chí là nóng tính và khó tính, nhưng thơ của ông thường buồn, một nỗi buồn như từ tiền kiếp. Thơ của ông đau đáu về miền Trung bỏng rát gió Lào cát trắng. Thơ của ông đắm đuối về mẹ, về chị, về những người em gái quê chân chất, đầu trần...
Vì thế mà đọc thơ ông, có những khi ứa nước mắt vì thương quê hương, xóm mạc, thương cánh đồng thẳng cánh cò bay, thương cái nghèo, cái khó cứ đeo bám mãi vào ký ức của những đứa con xa quê, dù đó là ai, và dù họ có đang ở vị trí nào trong cuộc đời rộng lớn này.
Từ ngày về hưu, rời khỏi chiếc ghế Tổng Biên tập Thời báo Tài chính, nhà thơ Hoàng Trần Cương ít bạn bè hơn. Nói đúng ra, bạn bè của ông chắt lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Họ thỉnh thoảng gặp nhau để hồi ức về một thời lính trận, hồi ức về những câu thơ đắm đuối lòng người.
Nhà thơ Hoàng Trần Cương năm nay đã chạm đến tuổi thất thập cổ lai hy, cái tuổi không còn sung mãn để ồn ào nữa, bởi vậy mà khác hẳn ngày xưa, cứ ra quán bia là đọc váng trời cả một tập trường ca, đọc đến khản giọng, đọc to đến nỗi, những bàn bia bên cạnh phải dừng lại nghe thơ ông, tán dương và vỗ tay.
Thời của Trầm tích quả thật là một thời kỳ mà thơ ông trở thành tâm điểm của nhiều cuộc luận bàn, người ta yêu thơ ông bởi nó không màu mè, bởi nó xù xì, gai góc như chính con người ông. Nó thô mạc, bởi vậy mà nó lay động lòng người.
Những câu thơ mà tôi chắc chắn rằng, nhiều người bây giờ nói về Hoàng Trần Cương là có thể thuộc làu làu nhiều chương trong Trầm tích: "Ôi quê hương. Cái đòn gánh trĩu hai đầu đất nước. Gió bão thù chi với mảnh đất này. Nối đuôi nhau xếp hàng ngang đen sì ngoài biển. Mưa giờ Ngọ chưa qua, gió giờ Mùi đã đến. Cay đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanh. Đất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh. Ngửng mặt nhìn trời xanh nhức mắt. Dằng dặc dải làng quê thưa thắt. Tảng cháy cạy đi rồi. Còn hằn vết móng tay. Cày lên. Sưng cả đáy nồi".
Hay: "Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt. Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ. Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ. Không ai gieo mọc trắng mặt người...".
Và thương biết mấy: "Để giữ lại dù chỉ vài mụn cám. Mẹ vén vun cưng nựng nụ cười. Trên gương mặt thời gian còn rác rưởi. Củ khoai ri gầy như sợi lạt. Mẹ tha về nhà. Chùm rễ trắng mọc vào đêm. Cái rễ khoai lang thành khúc ruột mềm. Chưa hề đứt. Nên bầy con không ngửa tay ăn mày ngoài chợ" hay: "Cái nón mê mẹ đội nửa đời người. Khi chóp thủng lại trùm lên vại nhút"...
Có những người nghe rồi thuộc thơ Hoàng Trần Cương, mỗi lần ngâm ngợi lại rưng rưng nơi khóe mắt. Họ đồng cảm và chia sẻ với những ký ức của nhà thơ, bởi ông như nói hộ lòng bao người con xa quê hương bằn bặt. Để rồi vẫn cái bóng dáng của quê nhà đau đáu trong trái tim.
Nhà thơ Hoàng Cầm đã từng khẳng định trong hội thảo về tập thơ Trầm tích đã nói: "Lâu lắm tôi mới được đọc một tập sách dày dặn, chứa đựng sự thực lớn như thế này. Tác giả Trầm tích là một thi sĩ đích thực. Phải yêu quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương đến mức nào thì mới viết được đến thế. Đọc ứa nước mắt. Đây thực phải là con người miền Trung.
 
 
 
Thơ Hoàng Trần Cương đậm đặc chất miền Trung, chất xứ Nghệ. Chúng ta có thể nhặt ra được nhiều câu thơ như những viên kim cương lấp lánh. Tôi đọc ba lần, lần nào cũng phát hiện được những chi tiết đắt giá. Với tôi, Trầm tích là một tác phẩm lớn, một tác phẩm còn lại của văn học Việt Nam sau 50 năm qua".
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong một bài viết đăng trên Báo Văn nghệ - Hội nhà văn Việt Nam cũng đã nói: "Tôi đã có trường ca Đồng Lộc - Con đường của những vì sao và vẫn ấp ủ một trường ca về đất và người xứ Nghệ, nhưng sau khi đọc trường ca Trầm tích, tôi đã từ bỏ ý định của mình vì không thể viết về xứ Nghệ hay hơn Hoàng Trần Cương"...
Những ngày nghỉ hưu, nhà thơ Hoàng Trần Cương thường đến quán bia một mình, ông không uống bia "ồng ộc" như thuở còn trẻ, mà nhâm nhi như uống từng ngụm ân tình, cầm trên tay cuốn sổ và cây bút, ông sáng tác. Ông thường lẩm nhẩm một mình, đọc lại những câu thơ cho liền mạch.
Ông viết đều, những bài thơ đầy tâm trạng vẫn ấp ủ cái hồn cốt quê hương trong từng con chữ. Ông viết rồi in sách đều đặn, nhưng không có những cuộc hội thảo hay tọa đàm. Ông lặng lẽ tặng những người bạn thân thiết để cùng chia sẻ những vui buồn trong thơ ca, trong chặng đường tuổi thất thập của ông.
Ông cho ra đời tập thơ Bầu trời - đất, trường ca Long mạch... Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, một người bạn thơ thân thiết của anh đã nhận xét: "Từ Đường chân trời bay tới Bầu trời - đất, lại chạm xuống Long mạch, thơ Hoàng Trần Cương đã có sự biển đổi chóng mặt về chất. Một nỗi buồn bình thản được tấu lên qua các cung bậc khác thường, gập ghềnh và thô ráp, trào cuốn và dịu dàng.
Bầu trời - đất và Long mạch ghi nhận nỗ lực không mệt mỏi của một nhà thơ luôn trăn trở tự đào bới vào chính mình để tìm ra được chính mình từ thẳm sâu. Cứ thế, không khoa trương, không diệu vợi, không làm hàng, thơ Hoàng Trần Cương là bản chất sống, bản chất yêu của chính anh".
Nhà thơ Hoàng Trần Cương được biết đến là dân tài chính thứ thiệt, là chuyên viên cao cấp và có thâm niên trên 15 năm làm Kế toán trưởng Báo Nông nghiệp Việt Nam và Thời báo Tài chính Việt Nam, nguyên là Tổng Biên tập Thời báo Tài chính Việt Nam, Chủ tịch Liên chi hội Báo chí ngành Tài chính. Dù vậy, ông luôn thừa nhận, thứ giúp ông "sống" được đến ngày hôm nay lại chính là thơ.
Ông đến với văn chương khá sớm và từng đoạt giải A về văn xuôi đề tài lực lượng vũ trang (1970-1972) của Tạp chí Văn nghệ quân đội, giải Nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam (1989-1990).
Nhưng phải đến trường ca Trầm tích, nhà thơ Hoàng Trần Cương mới thực sự tìm được chính mình. Trầm tích ngay sau đó đã đoạt Giải thưởng Văn học (giải B, không có giải A) của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 2000)...
Nhà thơ Hoàng Trần Cương từng chia sẻ: Bảy tuổi đầu ông theo cha ra sống ở mảnh đất Hà thành, rồi nhiều năm sau, ông đắm mình trong miền Kinh Bắc, cái vùng quê ngọt ngào đã mang đến cho ông một người vợ dịu hiền, tần tảo, nhưng cũng cho ông một tâm hồn "liền anh, liền chị".
Trong ông có cái lãng mạn của chất Bắc, nhưng lại có sự dữ dội của miền Trung. Ông lại là một người thương binh đi qua chiến trận, bàn tay ông từng vuốt mắt đồng đội đã hi sinh.
Hiển hiện trong ông là người mẹ, là những người thân, là mảnh đất cá gỗ, là vùng trời miền Trung và trên hết là những "trầm tích" của tổ tiên, dòng họ, là những tháng năm chiến chinh đổ máu, là hi sinh của bạn bè đồng đội, cả nỗi đau tê nhức của mảnh đạn vẫn đang nằm trong cơ thể ông suốt mấy chục năm trời...
Tất cả những điều đó, với ông, nó có sức nặng bom tấn để từ trong trái tim ngân lên những khúc ca bi tráng về những gì ông đã trải qua trong cuộc đời này và buộc ông phải cầm bút viết: "Nhiều lúc anh muốn bứt đi dòng hồi tưởng của mình/ Những ký ức từng làm em xây xẩm/ Khi sốt rét quật anh ngã sấp/ Buổi động trời vết thương cũ nghiến răng/ Nhiều lúc một mình ngồi muốn nuốt chửng cả mùa trăng/ Khi rạng lên trong anh những gương mặt đã tản vào năm tháng/ Những chiếc áo của đồng đội anh nếu đem ghép lại/ Chắc cũng đủ căng lên thêm một bầu trời”.
Khi viết một tác phẩm, ông phải huy động vốn sống cả cuộc đời tích cóp được. Cuộc đời ông đã được đào luyện qua nhiều thử thách, khổ ải và nỗ lực, chính những điều đó đã làm nên số phận ông và tác phẩm của ông.
Ông nói: "Tôi gốc Nghệ, chôn rau cắt rốn ở mảnh đất nhiều thương khó này nhưng tôi lại trưởng thành ở Bắc Hà và đổ máu ở chiến trường miền Nam, tôi nghĩ, viết về miền nào cũng là điều không quan trọng vì cũng chính là Việt Nam đấy thôi. Tôi chỉ viết khi những con chữ được lắng tụ, khi những va đập với cuộc đời đã đến tận cùng. Thường trực trong tôi khi cất bút thành lời thơ, chính là những lúc cảm xúc hoặc là dâng đến tận cùng, hoặc rơi xuống đáy. Không có khoảng giữa".
Gần đây, thơ của ông hướng về gia đình, ông có thơ tặng vợ, tặng cháu nội... Trong bài thơ viết cho cháu nội, ông đã tâm sự với cháu như trút cả ruột gan mình: ...Ngắm Nghé con ngọ nguậy quậy lòng bà/ Không hiểu sao ông ngỡ ngàng chột dạ/ Thôi mình cứ từ từ cháu ạ/ Vịn tháng ngày thư thả lớn lên/ Rồi cháu sẽ thương hôm nay lắm đấy/ Biết mấy đêm ròng/ Ông gắng gượng ngồi canh từng trang giấy/ Cháu sẽ đọc gì đây/ Cháu sẽ hát gì đây/ (Cái thời ấy hình như nhiều thơ quá)/ Thơ dầy kệ sách/ Thơ đầy mặt báo/ Nhưng sao lại toàn một giọng buồn thiu/ Bài nào cũng hờn/ Câu nào cũng tủi/ Nhỡ chạm vào Nghé còn biết lui không?/ Nào ông cháu mình cứ thủng thỉnh đi rông...".
Điều may mắn của ông là sau tất cả những vinh quang, may rủi ở cuộc đời, bên ông vẫn luôn có bóng dáng người vợ hiền thục là cô Chè, con gái vùng Kinh Bắc, một người phụ nữ giản dị, chu toàn, sinh hai cậu con trai thông minh, giỏi giang và yêu thương ông hết mực. Bà chấp nhận mọi cơn say mềm vì bia rượu của ông, chịu được cái tính nóng như lửa của ông, cả cái tính thất thường của một nhà thơ già về hưu, với một tình yêu tuyệt đối.
Dường như biết được những thiệt thòi, hy sinh của vợ, nên ông dành tặng bà những vần thơ tha thiết: "Mưa là trăng của ngày/ Êm đềm bay mềm đá/ Rải lụa là khắp ngả/ Cưng nựng mùa héo hon/ Em là trăng của anh/ Mọc xanh miền xói lở/ Khuyết tròn vương thương nhớ/ Chở hương về đó đây/ Trăng là mưa trắng đêm/ Giăng thu vào cõi lặng/ Em là mưa cuốn nắng/ Đưa anh về trời riêng".
Nhà thơ Hoàng Trần Cương bây giờ đang đối diện với di chứng của cơn tai biến, ông bị liệt nửa người và phải vật lý trị liệu để mong cơ thể được bình thường trở lại. Ông vẫn minh mẫn nhận ra bạn bè, người thân, vẫn lẩm nhẩm đọc những câu thơ mới trên giường bệnh.
Ông không khác gì nhiều, vẫn cái vẻ xù xì, gai góc, với bản chất của một người lính, chắc chắn ông vẫn bản lĩnh để vượt qua bạo bệnh để trở về ngồi nhâm nhi li bia cỏ cùng bè bạn, trở về lại sông Lam, đập Ba-ra nước quanh năm cuộn chảy, để lại được đắm mình vào dòng thi ca chưa bao giờ vơi cạn trong ông...
Trần Hoàng Thiên Kim
 
Hoàng Trần Cương - người hóa giải những nỗi niềm, khát vọng
THÁI DOÃN HIỂU Thứ bảy, 23 Tháng 10 2010 21:05
Với một tay nghề già dặn, thơ Hoàng Trần Cương là thứ phù sa kết đọng mang nét tổng kết cuộc đời sau những năm tháng vật lộn gian nan. Như một tấm gương lồi, nhà thơ đã phản ánh được những vấn đề chân thật và bản chất nhất có tính đặc thù của thời đại ta đang sống. Soi vào dòng thơ Hoàng Trần Cương ta thấy bóng dáng mình thấp thoáng nổi chìm. Nhà thơ đã cảnh báo: sống đâu phải dễ, phải kiên cường lắm mới mong sống sót ở đời.
Trầm tích và tập thơ Quà tặng của của thế kỷ của Hoàng Trần Cương là những thi phẩm có giá trị được kết tinh bằng máu huyết của một thi nhân tạo nên khí cốt tầm vóc thi bá. Văn học Việt Nam hiện đại ghi thêm một tên tuổi mới sáng giá về trường ca :Hoàng Trần Cương! Trầm tích là bản trường ca về cuộc sống, bài ca về số phận con người mang ý nghĩa nhân văn bởi nó đã khêu gợi và truyền lửa cho ta hành động. Thơ Hoàng Trần Cương là quyển cách trí, là sách học làm người bằng thơ hướng cho con người một thế đi, dáng đứng.
Sau chiến tranh thơ ta đang có xu hướng khai thác đời tư và những mảnh đời vụn vặt, nhàn tản thì Hoàng Trần Cương đã dám xông thẳng vào những vấn đề thế sự gai góc nóng bỏng của xã hội hôm qua và hôm nay để hướng tới ngày mai tươi sáng với cái nhìn sắc bén, tổng lực cất lên tiếng nói mạnh bạo có trọng lượng, đầy ma lực nghệ thuật.Trầm tích là thiên trường ca có lẽ là hay nhất trong các trường ca hay của nửa cuối thế kỷ XX đầy giông bão, máu lửa.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Hoàng Trần Cương (*) có hai câu thơ đọc rất thú:
 
Cho lưng trời nắng thất thanh
 
Để hoàng hôn mải loanh quanh với chiều
 
(Hoàng hôn xanh)
 
 
Có lẽ thơ Hoàng Trần Cương hấp dẫn bạn đọc bắt đầu từ chỗ này đây: mật độ những câu thơ hay như vậy cứ mọc lên dày đặc trong thi phẩm của anh. Ta có thể nhặt thêm:
 
Anh gạt mù sa ra vớt nắng
 
Vô tình trăng nhú đầu tay
 
(Đêm Tây Nguyên)
 
Tháng Năm chín tháng Mười vàng
 
Em như gạo tám bàng hoàng rượu tăm
 
(Đá dăm)
 
Trái tim nói bằng lời của mắt
 
Đêm âm thầm vùi nắng vào trăng
 
(Trái tim đêm)
 
Gió tha mưa ướt đẫm phố phường
 
Nắng láu táu đưa mùa hè đến sớm
 
Mùa thu đành lãng đãng theo sương
 
(Cảm)
Có phải trái tim nằm lệch một bên
 
Nên thương nhớ thường nghiêng về một phía?
 
(Nhớ từ biển)
 
Gió bỗng rộm vàng thơm mùi nắng
 
Mây trắng tuôn về loãng hoàng hôn
 
(Hơi ấm ban ngày)
 
Mỗi ban mai cỏ lại xanh ngơ ngác
 
(Chân dung)
 
Tháng năm vèo qua rát cả ráng chiều
 
(Hoàng hôn màu gấc)
 
Trăng đầu tháng đỏ ngầu
 
Như cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi
 
(Thóc giống - Trầm tích)
 
Tiếng ve rẽ cơn mưa đưa nắng vào hè
 
(Những viên đá lẻ - Trầm tích)
 
Không dụ nổi cơn mưa
 
Cho buổi chiều bớt cạn
 
(Nỗi nhớ ngày thường)
 
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
 
Chuốt ruột mình thành giải lụa sông Lam
 
(Miền Trung - Trầm Tích)
 
Quả là không có một vật nào trong trời đất là không chứa sẵn thơ khi người thơ biết mở mắt xanh ra với nó.
Còn bài hay? Cũng khá nhiều. Ta có thể nếm chất thơ nguyên chất trong Cảm, Hơi ấm ban ngày, Vô tình, chất ký họa gọn sắc trong Đêm Tây Nguyên, Làng; bút pháp dịu ngọt kiệm lời trong Trái tim đêm, đậm đà chất dân dã trong Đá dăm, Hoàng hôn xanh, những tiểu kết sắc gọn ở Dấu vết tháng ngày, chất biểu tượng trong Núi, cách lập tứ vững chãi trong Cầu ao, Miền Trung...
Là người lính, Hoàng Trần Cương đã lặn lội trong máu lửa khắp các chiến trường vì lẽ tồn vong của Tổ quốc để kiếm tìm lẽ sống làm hành trang cho đời. Khi kết thúc chiến tranh, trở về làng quê yêu dấu nơi trái tim anh thường trực cư trú thì bỗng tìm ra được nó. Vây giữa yêu thương tổ ấm gia đình - mầm mống của tình yêu tổ quốc và các nhân đức xã hội khác, mang một tâm hồn cao cả, Hoàng Trần Cương đã xem quê hương là tất cả và trên hết. Anh đã bạc đầu trước những thăng trầm biến đổi của quê hương.
 
Nơi nguyện ước tổ tiên về trên mỗi trang gia phả
 
Nơi những vật thiêng vùi mình trong đất đá
 
Nơi những câu ca không nhám bụi tháng ngày
 
Giọt nước nào cũng háo hức biển khơi
 
Giọt nước nào cũng lao xao tiếng vọng
 
Tôi lớn lên giữa ngày trong tháng đục
 
Cùng dòng sông mắc nợ phù sa
 
(Cật tre - Trầm tích)
 
 
Hoàng Trần Cương yêu quê đến oặn lòng mới có cái nhìn đằm thắm, tinh tường:
 
Lặng lẽ phù sa trôi giữa đôi bờ co thắt
 
Hạt bụi nào làm nhặm bóng tháng năm?
 
(Đất)
 
với cảm nhận khám phá, từng trải:
Hình như sông cũng nằm mơ
 
Nửa đêm sóng cười trắng xóa
 
Hình như bến bờ đau đẻ
 
Khuya khoắt đất vật ùm ùm.
 
(Trầm tích)
Cả cái vất vưởng của kẻ thiếu cố hương:
• Xa nhà đến cả gió
 
Cũng lần hồi lang thang
 
(Bóng cỏ)
 
 
 
Và với cái nhìn gân guốc bằng cặp mắt nông dân:
• Hôm nắng nỏ thì trời không thả gió
 
Bữa mưa giầm bão lại xổng vào đêm
 
(Gió)
Chính quê nhà – nơi đất cằn sỏi đá, nhà tranh vách đất, con người lam lũ nhếch nhác, hoang tàn vì bom đạn, quặn thắt bởi khúc ruột miền Trung bỏng rát gió Lào với mưa nắng thất thường đã đứng lên làm những cuộc cách mạng long trời trong chiến tranh giữ nước bi hùng và vật lộn gian nan với thiên tai để tạo dựng cuộc sống mới. Chính quê hương ấy đã rèn đúc nên một Hoàng Trần Cương - nhà thơ chiến sĩ với những cảm nhận run rẩy tinh tế từ trong bộn bề kỷ niệm:
 
 
Lại về với con
 
Cái nhớ chẳng chịu già
 
Thanh thản đồng quê mùa gặt hái
 
Rơm vàng đơm nắng trên đê
 
Rơm vàng nhảy lò cò với cỏ
 
Rơm vàng nguýt lườm lũ nhỏ
 
Cơm mới nức thơm cười trắng vung nồi
 
Lại về với con mùa tằm ăn rỗi
 
Nong kén vàng rủ nắng vào đêm
 
Tiếng xa quay ươm tơ vào giấc ngủ
 
Tiếng bãi dâu rũ nước đợi trăng ngần.
 
(Hoàng hôn màu cỏ - Trầm tích)
Quê nhà, nơi có chuyện cổ tích của bà, những lời dặn dò của mẹ, lời răn của cha, có cây đa bến nước, con đò, dòng Lam xanh, những mái tranh nghèo, vườn cau, “chum tương, chĩnh cà, vại nhút”, có ngôi chùa cổ “một thời ông bụt cũng bỏ làng đi hành khất”, có gốc gạo thiêng làm trai gái làng sờ sợ khi qua đó, có quỷ Cố Bợ ranh mãnh, có lúa khoai, có bãi ngô non, có chiều tà, hoàng hôn xanh, có vầng trăng khuyết, cỏ. Mảnh đất đó có những người nông dân củ mi cù mì “Thường mượn khói thuốc lào chườm nỗi xót xa”, họ yêu ghét rạch ròi kiên định, họ làm lụng đồng áng một nắng hai sương “Trầm mình trong đói khổ - vẫn thả hồn gió bay” Đó là nơi ấp ủ tình làng nghĩa xóm tối lửa tắt đèn cưu mang đùm bọc lẫn nhau... Ôi cái làng Đặng cố hương ốc đảo xanh tươi, có đập Ba Ra tung nước cười trắng xóa ban ngày và rì rầm tâm sự cùng ai đó thâu đêm.
 
 
Con không tin mảnh đất này rụi rọ
 
Ai đi ra cũng chẳng muốn quay về
 
Có một mảnh đời con trong đống rác
 
Xin mẹ cho con bới tìm
 
(Đá đỏ - Trầm tích)
Tìm gì? Hoàng Trần Cương toàn tìm được vàng ròng, tìm được thơ đích thực.
Cái làng nhỏ quê anh - một chấm xanh bé xíu thao thức bên trời trên bản đồ nước Việt. Nơi anh vừa mở mắt chào đời “gió Lào mặc cho tôi chiếc áo màu nâu”, rồi liền quẳng anh trụi trần vào lam lũ “đói khát chen nhau gầy rạc lời ru - Nuốt lống ngày vui có giấc mơ năm ngoái”, đời sống cơ cực đến nỗi “Đắng cay lắng vào trái ớt lúc còn xanh”; nơi thiên nhiên thật khắc nghiệt “chiều quê ráng nhuộm màu nước lũ - Mưa xói đỉnh đầu - Nước chảy đứt đuôi rắn”; nơi đó có “Tiếng học bài nóng ran xóm nhỏ - Tiếng gọi đò méo cả bến sông”; nơi có cảnh dời làng hãi hùng xóa nát cả cảnh quan làng xã được vun đắp từ bao đời “Thôn dưới làng trên nhà cửa tuột trần - Xua nhau lên núi”; nơi “Nắng ho gà nên chiều tà đến tội’; nơi “Gió quên lượm giọt mồ hôi để da tóc mẹ mồi”; nơi “xanh nghiêng đêm - thắm lệch ngày”; nơi “Tiếng mõ trâu chùng cả dáng chiều”; nơi “ngửa mặt vấp ngày - Mở mắt vấp đêm”; nơi “Ngày lủi vào tiếng cuốc thất thanh”; nơi “Cơn đói hé mắt nhìn qua lớp da nhăn - Lùa cả niềm vui rụng quăn đuôi tóc”; nơi có cảnh “Trời tròn thế mà nắng chiều lặc đói”; nơi “mưa quây khú cả nắng vàng”; nơi có cảnh địa ngục đào đá đỏ "Người đội lốt ma - ma lột thành người"; nơi "bạc mặt vì quê hương", nơi "giấu nghèo như giấu nhục"; nơi “Ròng rong mùa chinh chiến - Bờ tre còm rướn sức trổ mầm non”; nơi “Giật mình súng đã tràn tay - Bàng hoàng biết tuổi thơ không về nữa”; nơi để nghĩ về “Những nấm mộ quặn rừng già hoang dại”; nơi “Quá khứ ngủ vùi trong đất’; nơi “Những khát vọng niêm phong vào trầm tích”; nơi “Thế kỷ này vẫn lắm quỷ nhiều ma”, nên đời sống người dân còn cay cực “Khuôn mặt nào cũng ngơ ngác đăm chiêu - Mấy đồng lương vá làm sao kín tháng”; cho đến cả thị thành cũng “Phố dài tái nhợt lo âu... Chua cả hè đường sấu rụng”; nơi “Nỗi đau là khoảng tối xăm vào ánh sáng’; nơi để lắng lòng tưởng niệm đồng đội đã hy sinh “Đất Quảng Trị ghì vào mình những chùm thơ chưa kịp hái - Những nỗi niềm đang ráo riết xanh”; nơi “Những buồn vui không giới hạn kiếp người”...
 
Sự thật duy nhất nhói lòng chứa trong Trầm tích là nỗi khổ đau và niềm tự hào của nhà thơ về con người và đất quê hương. Hoàng Trần Cương không vội vã giở qua cuốn sách đời, anh khôn ngoan vừa đọc vừa suy nghĩ. Hoàng Trần Cương nung nấu nghiền ngẫm từng câu thơ từng đoạn thơ, thuộc nằm lòng, sửa tới sửa lui, cày nát trên cánh đồng thơ, gieo vãi thật nhọc nhằn, hào sảng và chua chát đến hàng chục năm trời “Đến câu hát cũng hai lần sàng lại – Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm”. Anh thích rèn dũa tâm hồn mình hơn là trang trí nó.
Tác giả đã ghi lại được một chuyện tìn éo le sau chiến tranh thật buốt:
• Có người lính mãn thời trai trẻ
 
Người yêu
 
giờ đã lấy chồng
 
Con búp bê mở mắt tròn xoe
 
Suốt ngày khóc trên tay con của người yêu cũ.
Nhà thơ phô, phô đến kiệt cùng nỗi khốn đốn đói nghèo:
• Đất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh
 
Dằng đặc làng quê thưa thắt
 
Chỏng chơ nồi cơm ngày đói khát
 
Tảng cháy cạy đi rồi
 
Còn hằn vết móng tay
 
cày lên
 
Sưng cả đáy nồi
Anh đắng lòng tìm lại những trang sử đầy máu và lửa, nhằm cảnh tỉnh cuộc sống:
• Cạnh đá sắc còn nguyên vết chem.
 
Nghèo khó cắn xé nhau
 
Con đi qua những địa tầng mưng máu
 
Gặp những hình nhân rỗng tim
 
Gặp những vương triều xô nghiêng chính sử
 
Bây giờ hoai rữa hư không
Hoàng Trần Cương có những suy nghĩ rất riêng tư chín đằm, trăn trở:
• Mỗi ngày tôi để lại
 
Vài giọt nắng trong mắt người thương nhớ
 
Giọt mồ hôi rơi cuối buổi chiều
 
Sợi tóc bạc hai đứa nhìn tiếc nuối
 
Đôi nét buồn thổi lạnh mặt người yêu.
• …Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo toan một niềm khắc khoải
 
Nơi lưỡi cày vừa mới đi qua
 
Chiều đứng lặng nghe tiếng người cuối bãi
 
Trăng lại treo lơ lửng trước hiên nhà.
(Dấu vết tháng ngày)
Mặc dù khuôn mặt lính còn hốc hác, thi sĩ của chúng ta vẫn cứ luôn đắm đuối nỗi yêu đương luôn trỗi dậy giữa đời thường:
• Chiều tươi màu áo người qua phố
 
Thoáng dáng em về thơm lá non
 
(Chiều xanh)
Thường thì niềm vui lớn, nỗi khổ đau lớn đều câm lặng, ít cất thành lời. Hoàng Trần Cương đã tận tâm giải tỏa nỗi ưu phiền của mình cũng chính là để hóa giải những ưu phiền của đồng loại. Không có những than phiền vặt vãnh, nỗi khổ đau chất chứa lâu ngày phải bật lên thành tiếng.
Thơ và trường ca Trầm tích của Hoàng Trần Cương giống như bộ hồ sơ của vị thẩm phán, một phổ hệ gia tộc, một tiểu sử tính cách được tích góp viết hằng ngày, được phân tích đánh giá theo chiều hướng xã hội học và đạo đức học. Có khi nó còn là một tiếng kêu thương, một lời ca tụng, một câu hỏi nhói buốt hay một chuỗi những lời đáp dang dở không lời.
Điểm xuất phát cho những hồi tưởng của Hoàng Trần Cương là từ góc nhìn gai góc, đau thương. Bao cay đắng ngọt bùi của đời người lặn ngụp vào lòng rồi tích tụ xuống đáy sâu tâm tưởng. Ký ức ấy có dịp là òa ra lai láng.
Quay lại tìm trời đã nín thinh
 
Quay lại tìm ta không còn là ta nữa
 
(Bóng đa làng - Trầm tích)
Nhà thơ đã cho ta sống lại những năm tháng tuổi thơ nhọc nhằn, trong ngần những kỷ niệm buồn đau để vươn lên tầm cao cuộc sống.
Làm thơ mà không có một đòn xeo chủ quan thúc đẩy mãnh liệt xuất phát từ một tư tưởng nổi bật của thời đại làm khởi điểm thì khó lay động được hồn người. Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong. Tích trữ ân nghĩa là một việc làm phúc đức. Anh đem lòng bao dung của mình bao dung kẻ khác. Anh lấy việc đền ơn đáp nghĩa làm niềm vui sống. Không hề than thở hay phàn nàn, những khổ ải đã làm cho lòng người bớt oán hờn. Hoàng Trần Cương đã tưới tình thương và đức độ xuống hận thù do kẻ ác gieo cho người thân của anh. Lòng nhân từ, đức vị tha đã nâng con người lên, tiếp thêm cho nhà thơ một năng lượng mới. Đó là cách trả và cũng là cách chữa lành các vết thương của mình.
Những trang đẹp nhất, rung cảm nhất trong Trầm tích Hoàng Trần Cương trân trọng viết dành cho bà và mẹ với tất cả ân tình máu thịt.
Bà là bà tiên hiền hậu, là cây cao bóng cả che mát đời anh. Trong bà là cả một kho tàng văn hóa dân gian “Câu ví dặm gầy nhom thì thào như người mới ốm - Từ trong cái đãy nâu sồng thắt ngang sau lưng bà tối tối lại bò ra” truyền sức sống cội nguồn sang cho cháu. Những câu thơ dung dị không dễ ai cũng viết được:
Tuổi thơ tôi đi qua
 
Trong nắng mưa lấn bấn
 
Trong dáng bà đã lấm bóng hoàng hôn
 
Những khi bà ốm
 
Giàn trầu không đầu hồi bỗng dưng trụi lá
 
Mùi hương bay váng vất cả chiều
 
Gió mang lá trầu vàng đặt vào manh chiếu
Ngoài sân
 
Một mình cây cau dầm trong sương muối
 
Âm thầm cúi đầu
 
Giấu bóng vào hiên
 
Đợi chừng nửa đêm khi bà tỉnh giấc
 
Mây buông mảnh trăng liềm
 
Ánh trăng nâng bóng cau non mớm đặt vào mép chõng
 
Bỏm bẻm miếng trầu
 
Rón rén thức mùi hương
 
(Đất mật - chương 2 Trầm tích)
Người mẹ của Hoàng Trần Cương là một người mẹ giàu lạc quan. Bà tất tả ngược xuối, tay cắm chân vầy trong bùn ruộng cấy cày gặt hái “Gió thốc vào dáng mẹ bạt theo mưa”. Bà tảo tần “Sấp mặt ngồi cuối chợ - Nhặt về những đồng xu bạc phếch đất bùn”. Với “đôi chân trần tóe máu tươi” bà quảy đầu con đầu hàng “Gò lưng giữ cho cân đòn gánh - Chỉ sợ con lật người là đổ mất ngày mai”. Bà tằn tiện, căn cơ “Cái nón mê mẹ đội nửa đời người - Khi chóp thủng lại trùm lên vại nhút”. Bà xắn váy quai cồng lo toan từng bữa ăn với “vàng khè màu ngô dặt”, với “đĩa rau lang cao như tầng núi xám” cho một gia đình đông con thiếu ăn quanh năm. Bà gạt nước mắt, giấu tiếng thở dài trước mặt con cái “Mẹ chan tiếng cười chạy vòng quanh mâm”. Bà đem cái can trường ra trụ với cuộc đời cơ cực:
 
Mẹ vén vun cưng nựng nụ cười
 
Trên gương mặt bầy con ngày giáp hạt
 
(Những viên đá lẻ - Trầm tích)
Người mẹ của Hoàng Trần Cương là một người đàn bà kiên nghị, biết cách dạy con sống:
 
Ngậm đắng nuốt cay
 
Không vay mượn tiếng cười
Mẹ dặn con những giọng cười đi mượn
 
Sớm muộn gì cũng phải trả người ta
 
Muối đã mặn xin đừng pha nước mắt
 
Mồ hồi sẽ lọc mình tinh khiết
 
Và nụ cười trở lại sáng bờ môi
 
(Những viên lá lẻ - Trầm tích)
Tình yêu của mẹ dành cho anh không bao giờ già. Trái tim của mẹ đã là trường học dũng cảm dẫn dắt tuổi thơ. Hình bóng mẹ luôn thổn thức sống trong tâm tưởng anh, trên môi anh tên mẹ chính là tên của vị thần hộ mệnh.
 
Mẹ là trầm tích của làng quê hoa trái
 
Cất trữ mọi giấc mơ rồi có mặt trên đời
 
Mẹ là trầm tích của bạt ngàn thương mến
 
Xanh mát màu trời đượm ấm hương quê
 
Đưa ngọn gió trở về xóm nhỏ
 
Đưa cơn mưa xuống mạch giếng làng
 
Đưa mây trắng về trời khêu lại nắng
 
Đưa nỗi buồn ra khỏi thôn trang
.
(Những viên đá lẻ - Trầm tích)
Khi nửa đời nhìn lại mình, đối chứng với bao người khác, đặc biệt với người đã khuất, Hoàng Trần Cương xem những ngày anh sống bây giờ “kể như là lãi”. Anh bảo: “Tư bản của mỗi người chính là vận may của họ - Tư bản của riêng con - Là cuộc sống mẹ cho - Những đồng vốn bằng xương cha da mẹ”.
Và cuối cùng, đọng lại trong hồn nhà thơ là bức tượng đài Người Mẹ tạc bằng nghĩa tình thắm đỏ:
 
Mẹ ngồi nhen lửa dưới mưa
 
Nuôi tôi giữa nước và trời
 
(Cật tre - Trầm tích)
Hoàng Trần Cương không hướng về số lượng sự kiện khi phản ánh, mà hướng theo chiều hướng sự kiện tìm tòi tiêu biểu. Các sự kiện chỉ làm nhiệm vụ bắc dàn cho bầu bí suy tưởng xum xuê bò lan ra. Là một kế toán trưởng, Hoàng Trần Cương cân đo đong đếm cuộc đời rất chính xác, tạo ra được những bất ngờ kỳ thú. Những câu thơ so le miên man, hoang dại chạy lúp xúp trên những dòng kẻ đứt nối của thời gian hoài niệm. Dưới ngòi bút của anh cái gì cũng sáng tỏ. Những lời độc thoại ngổn ngang tâm sự của thi nhân đã đem vào thơ cả một niềm hưng phấn trong sạch
Anh đóng nhiều vai, nhập vai khéo: lúc là trẻ con “nhảy cò cò với cỏ”, lúc là một lão nông tri điền, lúc lại là bà, mẹ, cha, người lính, nhà quản lý, một cán bộ về hưu, nhân viên kế toán..
Anh yêu cái đẹp, cái thật, cái tốt đến nồng cháy, ghét cái dối trá, cái ác, cái xấu đến sâu sắc. Anh yêu mình, yêu những gì trong mình mà người khác có thể yêu được.
Hoàng Trần Cương viết hồi ký bằng thơ. Nhớ lại dĩ vãng để làm gì? - Dĩ vãng chỉ còn là dĩ vãng hắt hiu, ngồi luyến tiếc quá khứ thì chỉ là một gã khờ bệnh hoạn. Ai chỉ chăm chắm sống cho hôm nay sẽ làm hỏng ngày mai của mình. Còn người sẵn sàng hy sinh hiện tại chỉ ngồi mơ mộng hướng tới ngày mai là một kẻ giơ tay bắt gió hoang tưởng. Với Hoàng Trần Cương, cuộc sống không phải là chuỗi ngày buồn nản đã trôi qua, mà là những mảng đời sướng khổ buồn vui còn tươi nguyên in đậm trong trí nhớ. Quá khứ còn sống trong hiện tại, còn tương lai chính là hiện tại đang đi vào bằng một ngõ khác. Hoàng Trần Cương không tán dương quá khứ, anh hồi ức lại quá khứ là để sáng tỏ hiện tại. Anh vừa mỉm cười vừa tách mình ra khỏi quá khứ. Quá khứ khổ đau là lực đẩy, đẩy anh về phía tương lai. Nhận rõ cái gì là tức thời, cái gì là muôn thuở, Hoàng Trần Cương lấy lửa từ quá khứ chứ không lấy tro tàn. Anh tràn đầy hy vọng sống cho hôm nay bằng cái vốn liếng sẵn có của ngày qua, và tầm nhìn xa trông rộng của ngày mai. Anh không tiến vào tương lai bằng cách đi giật lùi. Đằng sau dĩ vãng, nhà thơ ngả mũ chào; trước tương lai, con người công dân trong anh đang xắn tay áo lên.
Trong thơ Hoàng Trần Cương quá khứ, hiện lại, tương lai hòa quyện đan vào nhau trong một chỉnh thể tạo nên bức tranh thời gian và không gian mênh mông, một thứ thời gian và không gian của tâm tưởng, nỗi niềm, khát vọng.
Khi tình đã chín, trí đủ đằm thì thủ pháp cất cánh. Hoàng Trần Cương có chất thi sĩ bẩm sinh, có ý thức tu dưỡng nghề nghiệp, đã định hình phong cách riêng, vừa hùng tráng vừa bi thiết. Bằng những chữ nhặt từ nơi bắt ốc mò cua tinh chế nên, ngôn ngữ thơ Hoàng Trần Cương mang mùi hương đất đai, cây trái, ao vườn, nắng lửa, mưa dồn, bão góp, lảnh lót tiếng mẹ đẻ ầu ơ vọng về từ miền thơ ấu xa xăm. Chất thơ của anh đậm đà trong từng chi tiết bình thường, lặn cả vào trong sỏi đá. Nhà thơ đã say sưa kể cho mọi người nghe về sự phức tạp và cái đẹp của cuộc đời. Hoàng Trần Cương chú ý nâng niu cả đến những cái nhỏ nhặt, những linh hồn bé nhỏ, gắng giảm bớt khổ đau, tăng niềm vui sống cho mọi người. Anh chuyện trò thật đằm thắm, lắng đọng tình người, tình đời, những trải nghiệm phong phú, những đúc rút tinh thông. Người đọc rung cảm phập phồng theo từng vận tiết nơi trái tim sinh nở của thi nhân. Từ trong rơm rạ, nước đọng bùn lầy, Hoàng Trần Cương đã bật lên những cảm hứng đầy thi vị thành những tâm khúc nỗi niềm.
Trầm tích là sự lắng đọng vật chất như phù sa, các thứ quặng mỏ, lắng kết cả những thứ của cải phi vật thể như ngôn ngữ, phong tục, lịch sử, văn hóa, đạo đức, phẩm tiết…Trầm tích với 19 chương đã được tác giả khai thác như nhà địa chất bóc tách từng vỉa các địa tầng để lộ những châu báu trong lòng đất. Nó là một trường ca bề thế, một dàn hợp xướng đồ sộ, được dàn âm phối khí nhịp nhàng, ăn ý. Cái nội lực giao hưởng này đã làm cho thiên trường ca thành công chuyển tải được khối dung lượng lớn những điều công dân Hoàng Trần Cương muốn thổ lộ.
Trầm tích là một trường ca thành công. Phép làm thơ trường thiên phải như sóng dậy, đợt này trùng điệp với đợt sau. Người giỏi thơ thường chỉ nêu ý mà không vạch tên, dẫn lý thông, nói việc trôi, tả cảnh vi diệu. Trầm tích có chi tiết đắt, cốt vững, bút pháp tung hoành, câu thơ vừa êm ái vừa gân guốc, thực và ảo xoắn xuýt lấy nhau.
Trong quá trình sáng tạo, ý nghĩa của trực giác nghệ thuật chỉ phát sáng lên khi những tiền tố tư tưởng được người nghệ sĩ đẩy lên hàng đầu. Nhiệm vụ của nhà thơ đâu phải chỉ tái hiện hiện thực thế giới mà điều trọng yếu là phải biểu hiện khát vọng của con người. Thơ phải hướng dẫn con người sống tốt đẹp hơn. Để làm cho thơ mình có thần khí, Hoàng Trần Cương không biểu hiện những gì đã qua, anh đang làm cho cái ấy sống lại và tiếp diễn. Hoàng Trần Cương không phản ánh sự thật trần trụi mà phản ánh một cái gì đó giống như sự thật. Cuộc sống sẽ chuyển hóa tiếp làm nó mất hẳn đi cái chất nguyên thủy tự nhiên để lột xác thành chân lý nghệ thuật. Trong thi phẩm của mình, các hình tượng của Hoàng Trần Chương đều mới mẻ, độc đáo, mỗi hình tượng đều sống đời sống riêng của nó. Nhà thơ hiểu nhiều biết rộng, cảm sâu đạt đến thâm độ lý tính và sự bặt thiệp từng trải.
Trầm tích có kết cấu tự sự giản đơn nhằm biểu đạt quá trình thanh lọc tâm hồn nhà thơ. Hoàng Trần Cương đã đưa ra như một giá trị cao hơn, khái quát hơn cái mà tự nhiên chưa hề có trong bản thân các thi liệu. Thơ anh đã chuyển tải được thế giới chân thật của tinh thần, một thứ hiện thực cao nhất của tồn tại. Chúng ta sửng sốt bởi tính chân thực, hồn nhiên, chuẩn xác như nó đã diễn ra đúng như thế trong đời. Đọc Hoàng Trần Cương ta khôngtìm thấy mà ta nhận thấy. Nhà thơ đã nâng cao được chất bác học, tính hiện đại trong thơ.
Trầm tích không hiến cho ta một điều gì thật kinh động. Tác giả biết cách giãi bày sự vật, sự kiện như nó chưa bao giờ được nói tới trước kia, đã nhìn sáng rõ hơn người thường tiếng vọng của nhân thế.
Bên cạnh những điểm mạnh trên, Hoàng Trần Cương còn vướng phải một vài khiếm khuyết. Thỉnh thoảng nhà thơ còn để cho tình cảm của mình dắt đi, cuốn theo nên các thao tác tư duy thơ có chỗ rối. Anh miên man say nên giọng kể có khi sa đà, tứ bị dàn trải, phân bố không cân xứng, quên chỗ dừng, trùng lặp hoặc dùng thái quá các thi liệu: Hoàng hôn (“Tấp hoàng hôn đóng nhấm cuối chiều” - “Mây trắng tuôn về loãng hoàng hôn”), chiều, trăng, nắng - [Câu thơ khá hay “Đêm âm thầm vùi nắng vào trăng” nhưng môtíp này có khác chi “Nong kén vàng rủ nắng vào đêm”, có khác chi “Để nắng lặn vào mắt trong...”. Hình ảnh đẹp rất Nghệ “nắng ra nàng” đã dùng ở Trầm tích rồi thì Đỉnh vua chớ dùng lại nữa].
 
Hoàng Trần Cương còn để lại những câu thơ khắc chạm nhưng gia công hơi quá tay:
 
Đâu chỉ lỡ một chuyến đò đánh chìm duyên đôi lứa
 
Trái tim trẫm mình trong máu đỏ tươi
 
(Sấp ngửa bàn tay)
Anh đã dụng công nhưng vẫn chưa vượt khỏi hơi hướm của thơ tiền chiến:
 
Áo ai chợt sẫm màu thương nhớ
 
Mượn bóng hoàng hôn trốn bóng mình...
 
(Manh áo hoàng hôn)
*Plutác viết rằng “Tình yêu cổ xưa nhất tình yêu cuộc sống. Và bài thơ hay nhất chính là bài thơ của sự sống”.
 
Với một tay nghề già dặn, thơ Hoàng Trần Cương là thứ phù sa kết đọng mang nét tổng kết cuộc đời sau những năm tháng vật lộn gian nan. Như một tấm gương lồi, nhà thơ đã phản ánh được những vấn đề chân thật và bản chất nhất có tính đặc thù của thời đại ta đang sống. Soi vào dòng thơ Hoàng Trần Cương ta thấy bóng dáng mình thấp thoáng nổi chìm. Nhà thơ đã cảnh báo: sống đâu phải dễ, phải kiên cường lắm mới mong sống sót ở đời.
Trầm tích và tập thơ Quà tặng của của thế kỷ của Hoàng Trần Cương là những thi phẩm có giá trị được kết tinh bằng máu huyết của một thi nhân tạo nên khí cốt tầm vóc thi bá. Văn học Việt Nam hiện đại ghi thêm một tên tuổi mới sáng giá về trường ca :Hoàng Trần Cương, sau những Thu Bồn, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Thanh Thảo, Thi Hoàng, trước những Nguyễn Vũ Tiềm… Trầm tích là bản trường ca về cuộc sống, bài ca về số phận con người mang ý nghĩa nhân văn bởi nó đã khêu gợi và truyền lửa cho ta hành động. Thơ Hoàng Trần Cương là quyển cách trí, là sách học làm người bằng thơ hướng cho con người một thế đi, dáng đứng.
Sau chiến tranh thơ ta đang có xu hướng khai thác đời tư và những mảnh đời vụn vặt, nhàn tản thì Hoàng Trần Cương đã dám xông thẳng vào những vấn đề thế sự gai góc nóng bỏng của xã hội hôm qua và hôm nay để hướng tới ngày mai tươi sáng với cái nhìn sắc bén, tổng lực cất lên tiếng nói mạnh bạo có trọng lượng, đầy ma lực nghệ thuật. Trầm tích là thiên trường ca có lẽ là hay nhất trong các trường ca hay của nửa cuối thế kỷ XX đầy giông bão, máu lửa.
Trầm tích của một đời đã trầm lắng hết kết xuống Trầm tích thành Trầm Nghệ ca độc đáo. Tác giả đã “tuốt xác ra mà thơ,…nó vật vã, tướp táp, thắt ngực buốt lòng” (Thanh Thảo). “Đây là một trường ca được viết bằng một thủ pháp nghệ thuật khúc chiết trong các cặp đối lập, nhưng đầy va đập giữa các ngôn từ, hình ảnh, lý trí, cảm xúc, với lối kết cầu đa tầng, đa thanh, đa nghĩa. Tác giả sử dụng đầy ắp các động từ, nhịp thơ sinh động, biến hóa và tạo được “ép phê” cực mạnh ở các cao trào phụ trong từng chương đoạn nhằm đẩy tới một cộng hưởng gần cuối tác phẩm (chương Đá đỏ). Hoàng Trần Cương đã tạo ra một thi pháp động rất đặc sắc trong thơ Việt cuối thế kỷ XX” (Nguyễn Trọng Tạo). “Trầm tích bởi 5 cái “rất”: rất Nghệ, rất thật, rất lính, rất riêng và rất giáo hưởng” (Nguyễn Thụy Kha). “Trầm tích thô tháp mà vẫn không thiếu tinh tế, nhạy cảm” (Đỗ Chu). “Tôi mê thơ Hoàng Trần Cương. Tác giả đã đi hết cỡ cái cá nhân mình trong tác phẩm” (Trung Trung Đỉnh). “Qua độ lắng của thời gian, thấy Trầm tích không bị phai nhạt” (Phạm Tiến Duật). Ra đời hơn chục năm, Trầm tích đã sống một đời sống khỏe mạnh tươi tốt “Lâu lắm tôi mới được đọc một tập sách dày dặn, chứa đựng thật lớn thế này. Tác giả Trầm tích là một thi sĩ đích thực, một nhà thơ lớn. Phải yêu quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương đến mức nào thì mới viết được như thế. Đọc ứa nước mắt. Đấy chính là thơ đích thực của quê hương Việt Nam nghèo khổ. Con người Việt Nam đích thực phải là con người miền Trung. Thơ Hoàng Trần Cương đậm đặc chất miền Trung, chất xứ Nghệ. Chúng ta có thể nhặt ra từng câu thơ như những viên kim cương lấp lánh. Tôi đọc ba lần, lần nào cũng phát hiện ra được những chi tiết đắt giá. Trầm tích rõ ràng có không khí trường ca, nhất quán chất trường ca” (Hoàng Cầm). “Trầm tíchlà một bài thơ lớn chứa nhiều chục bài thơ nhỏ có giá về Cội nguồn, về Đất đai, về Hạt giống, về quặng lửa… “ (Hồ Phi Phục). Với Trầm tích, “anh Hoàng Trần Cương đã chọn hướng đi đúng. Viết trường ca là dấn thân vào phiêu lưu. Tác giả phải biết giữ người ta ngồi lại đọc qua hàng trăm trang thơ, hàng ngàn câu thơ. Về nghệ thuật trường ca, nên tạo ra “khoảng trống” đó nhằm tạo ra vùng liên tưởng, để bạn đọc cùng ta sáng tạo lại một lần nữa , mở ra những thế giới khác, tái sinh ý nghĩa” (Hữu Thỉnh) (1)
Trầm tích là như vậy đó! Tôi nghĩ, nếu có viết thêm 4 trường ca nữa như dự kiến thì rồi Hoàng Trần Cương cũng khó mà vượt qua được chính anh?
Thoạt trông, cái mặt Hoàng Trần Cương ẩn tướng rất khó nhìn, nó khắc khổ, góc cạnh và bụi bặm. Đúng là hoa sen trong giếng ngọc! Là hậu duệ đời thứ29 của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi, Hoàng Trần Cương mang trong mình dòng máu thơm tài hoa và tiếp tục làm rạng danh công đức cụ tổ của mình. Anh đã hai lần đoạt giải trạng nguyên về văn chương.
 
 
(Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)
---------------------------
(*) Nhà thơ Hoàng Trần Cương sinh ngày 30-7-1948 tại xã Đặng Sơn, Đô Lương, Nghệ An. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1994). Hội viên hội Nhà báo Việt Nam. Hội viên Hội Kế toán Việt Nam.
Sau khi tốt nghiệp Cử nhân Đại học Tài chính - Kế toán, tháng 8-1970 Hoàng Trần Cương gia nhập quân đội chiến đấu ở các chiến trường miền Nam, Lào và Tây Nam. Kết thúc chiến tranh 1975, nhà thơ ra quân chuyển ngành làm chuyên viên ngành kế toán kinh doanh, bộ Tài chính. Hiện nay là Phó tổng biên tập, rồi Tổng biên tập Thời báo Tài chính. Mới nghỉ hưu.
Tác phẩm đã xuất bản: Hạnh phúc hôm nay (Ký sự, in chung), Thanh Niên, 1971; Bầu trời Quảng Trị (Truyện ký, in chung), Thanh Niên, 1972; Dư âm (Truyện ngắn, in chung), Lao Động, 1976; Đường chân trời (Tập thơ, in chung), Trẻ, 1989; Dấu vết tháng ngày (Tập thơ) Hội Nhà văn,1991; Trầm tích (Trường ca), Hội Nhà văn 1996, 1999 ( Đã dịch sang Anh ngữ), Quà tặng của hành tinh (Tập thơ), Hội Nhà văn,1999.
Hoàng Trần Cương đã nhận các giải thưởng văn học:
- Giải A cuộc vận động viết về lực lượng vũ trang (1970-1972) của Tạp chí Văn nghệ Quân đội với ký sự Hạnh phúc hôm nay.
- Giải Nhất cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ 1989-1990 với trường ca Trầm tích và chùm thơ.
- Giải thưởng VHNT Bộ Quốc phòng (1994-1999) trường ca Trầm tích.
- Giải thưởng Hồ Xuân Hương (5 năm một lần) của Hội VHNT Nghệ Tĩnh cho trường ca Trầm tích.
(1) Sau khi trường ca Trầm Tích ra đời, phát hành chính thức năm 1999, bài viết trên đây của chúng tôi được công bố trên tạp chí Sông Hương số 142 ra tháng 12-2000, tạp chí Nhà văn đăng lại trên số 2-2001, tác phẩm Trầm tích đoạt 4 giải thưởng quốc gia, đã gây một chấn động lớn trong công chúng bạn đọc và giới văn nghệ cả nước. Trong âm hưởng của tiếng vang đó, báo Văn Nghệ đã mở cuộc tọa đàm về Trầm tích ngày 3-10-2002 tại tòa soạn với rất đông văn nghệ sĩ tham dự. Các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình đã phát biểu tại chỗ khá sôi nổi, đánh giá cao Trầm tích. Để bạn đọc biết thêm thông tin, chúng tôi xin trích dẫn một số ý kiến quay quanh cơn địa chấn Trầm tích trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại cuối thế kỷ xx (Thái Doãn Hiểu)
 
 
 
[[Thành viên:Hoahoangtran|Hoahoangtran]] ([[Thảo luận Thành viên:Hoahoangtran|thảo luận]]) 13:24, ngày 13 tháng 4 năm 2017 (UTC)