triều đều nghĩ như vậy, nên mới tâu vua cứ lờ đi không thèm trả lời.
Ngoài biển Đà-nẵng, Leheur de ville sur-art, phát cáu, lại ra lệnh bắn vào đồn quân Đà nẵng.
San một hồi trái-phá dữ-dội, trong đồn Đà-nẵng, thành-lũy tan hoang, hải-đài đổ-vỡ, quân lính của ta chết nằm như dạ. Giữa đống xác người chồng-chất, mấy đội pháo-binh còn hăm-hở nạp đạn vào súng thần-công bắn ra ngoài biển, nhưng mà đạn đi không tới thuyền của địch-quân. Thấy thế nguy, quân ta phải bỏ đồn rút vào mánh trong.
Quân Pháp tuy phá được đồn Đà-nẵng, nhưng chẳng qua phá cho đã hờn, liệu chừng binh-lính trong một chiến-hạm, dù có kéo lên đất-cạn, cũng không làm nổi trò gì. Le Heur de Ville sur-Art bèn nhổ neo trở ra, rồi chạy thẳng về nước. Lúc đó có người cố-đạo là Péllerin, trốn được xuống tầu, cũng cùng về Pháp trong chuyến ấy.
Chiến-hạm Cát-ti-na đi rồi, vua quan trong triều đều mừng cho rằng cái cách « ngự-nhung » của mình như vậy là đắc-sách lắm, thế nước từ nay sẽ vững như núi Thái-sơn, các ngài lại ra công làm thơ, làm phú, ca-tụng cuộc thái-bình, hoặc hỏi vặn nhau những đoạn sách hiểm-hóc!
Thấm-thoát sang đến tháng 11, cửa biển Đà-năng lại thấy có tầu của người Tây-dương tiến vào. Quan lính trong đồn Đà-nẵng ai nấy lo-sợ, chắc sẽ có trận đại-chiến nay mai. Thủy-bình Đề-đốc tức thì đốc quân dự-bị phương-ược chống-cự.
Chiếc tầu chuyến này không dữ-dội như chiếc ầtu