táng Hoàng-Diệu.
Sớm mồng 10, khoảng đầu giờ Dần, trời chưa sáng rõ, trong nhà hội-đồng, ba hồi trống cái vừa dứt, tiếp luôn đến ba hồi chiêng, dân-phu ăn-bận đồ tang, đã đem bộ đòn bát-cống, mấy chiếc hương-án, long-đình và các nghi-trượng, rước quan-tài Hoàng-diệu đi ra cửa đông.
Trên trời, bóng mây sầm tối, hơi sương mờ-mịt, ngọn cây đều ủ-rũ la-đà!
Đám tang từ-từ tự trong cổng thành tiến ra.
Ngọn cờ không gió, lướt-thướt rủ dưới chùm mao!
Mấy hàng dùi đồng bát-bửu siêu-sẹo ngả-nghiêng, coi như ý ngơ-ngác.
Tiếng chiêng rền-rĩ, khoan-thai điểm với tiếng trống thình-thình.
Dịp sáo khi nhặt khi thưa, sen với dịp kèn lúc chìm lúc bổng, cái giọng não-nùng ai-oán, dục thêm nỗi buồn-rầu!
Hoa cỏ bên đường, dường như có vẻ bẽ-bàng, tiếc ông chủ đáng yêu của nó.
Tuy không có môn-sinh, đệ-tử, hay là họ-hàng, ruột thịt của người qua đời, nhưng người đi đưa rất đông, đám tang kéo dài suốt mấy phố!
Đúng giữa giờ Mão, người ta đã rước linh-cữu Hoàng-Diệu đến dinh Đốc-học (tức là khu đất chỗ dẫy pho tên quan Cựu kiến-trúc kỹ-sư Lagisqué bây giờ.)
Vài tuần tế-viếng, một nấm đất vàng, cái ông hôm