nước hồi đó, ngày nay chưa rõ là bao nhiêu, nhưng cái chế-độ binh-lính thì còn có thể khảo được.
Đại-khái trong nước có năm thứ lính: bộ-binh, thủy-binh, tượng-binh (lính theo voi) kỵ-binh (lính cưỡi ngựa) và pháo-thủ-binh (lính bắn súng)
Trong năm thứ lính đó, nhiều nhất là bộ-binh, hoặc ở kinh-thành, hoặc đi đóng giữ các tỉnh. Số lính này chia ra từng « doanh », từng « vệ », từng « đội », do các võ-quan như Thống-chế, Đề-đốc, Lĩnh-binh và Cai, Đội. Cai-quản. Lính thì mỗi đội có 50 người, mỗi vệ là 10 đội, mỗi doanh là 5 vệ. Thế là một vệ có 500 lính, đồ binh chỉ có 21 ngọn cờ, 200 khẩu tiểu-sang và 2 khẩu súng thần-công,
Theo luật bản-triều, cái tuớc công-hầu là bực rất quý, công-thần ít người được phong. Vậy mà súng thần-công nhiều cái phong chức tướng-quân, voi trận nhiều con phong tước quận-công..
Chẳng nói chi nhiều, chỉ một chỗ đó đủ thấy võ-bị của Ta lúc đó là thế nào rồi.
Nói về học-thuật càng chán ngắc. Tiếng rằng theo đạo Khổng-tử, nhưng cái chân-tướng của Khổng-giáo đã bị chế-độ khoa-cử che lấp đi từ lâu rồi.
Ba năm một lần thi-hương, kén lấy Cử-nhân Tú-tài, ba năm một kỳ thi-hội, kén lấy Tiến-sĩ Phó-bảng.
Phép thi thì có chiếu, biểu, sách, luận, thơ, phú, kinh-nghĩa. Các thứ văn đó thể-lệ tuy khác nhau, rút lại, chỉ là những bài theo ý cổ-nhân bên Tầu mà nặn cho dài ra. Người nào thơ hay, phú giỏi, kinh-nghĩa, văn-sách dống với ý của cổ-nhân bên Tầu, thì người ấy nhẩy tên địa-vị ông Cử ông Nghè, dần dần làm giường làm