Sừ tiên-ban, sứ tiên cung[1]; bắt khoan bắt nhặt
Tiền riệc tặc, hậu riệc tặc[2]; tiếng nhỏ tiếng to.
Thầy dốt canh khôn, ngay quay ra cóc; tiền tầy rượu cắn, hiền quá hóa ngu.
Nước chè tàu tuôn một vai hơi; mặt cán tàn chi hướng.
Thuốc lá tỉnh hút năm ba điếu; đầu tán tọng chi rù.
Nhĩ-kỳ:[3] Xem chữ xem văn, chấm bài chấm đối.
Lên mặt thầy, sổ những băm bầu; bưng mắt chủ, khuyên như lòi tói.
Hạ bút xuống tô tô điểm điểm; mực chát đen xì.
Giở bài ra đọc đọc ngâm ngâm; son hòa đỏ trói.
Gạo nguyệt-đốn lại nài nhứt-đệ;[4] bàn mỏng bàn dầy.
Tiền hương-khoa chực bổ đồng-môn; thu chầy thu cối.
Đánh trống đi qua cửa sấm; đem chuông sang đấm nước người.
Cặt như con khỷ, lười tựa đười ươi.
Rượu túy cung-thang; chặc ba hoa chi miệng.
Văn gàn bát-sách; rung chữ ngũ chi đùi.
Xin rước thánh-nhơn về[5]; đem kinh truyện ngó vài thiên sách cổ.
Ước gì nhà chủ bận, hoãn tháng ngày cho rộng lúc đi chơi.
- ▲ Tục truyền: Xưa có ông Trạng dốt, chỉ thuộc tiếng nói lái. sang sứ Tàu, vua Tàu bắt vào dạy hoàng-thái-tử. Ông trạng trông thấy có bàn thờ cúng tiên-sư, bày đồ bình-hương, bình-hoa, và bức tranh cô tiên thổi sáo; mới ra câu văn: « Hường-binh, hòa-binh, sừ tiên ban, sứ tiên cung chi sảo thối, kỳ cố hà rư? »
Thái-tử không làm được, trạng đánh mãi thái-tử, vua Tàu tưởng là trạng giỏi, ra văn khó, không biết đó là tiếng nói lái, phải cho trạng về. Đấy là chế thầy đồ cũng dốt như vậy.
- ▲ Cổ văn có bài: Tiền xích-bích phú, hậu xích-bích phú, thầy đồ dốt đọc nhầm chữ xích (赤) ra chữ riệc (亦) chữ phú (賦) ra chữ tặc (賊).
- ▲ Nghĩa là ấy đó, là hai chữ lề lối tiếp sang vần phú khác, dể đẫn xuống những việc ở dưới.
- ▲ Gạo cung lương tháng, thầy lại đòi nuôi thêm một anh học trò nữa.
- ▲ Là cho học trò về, rồi thầy nằm nghỉ.