Huống chi: Kinh-sử lầu thông, anh-đồ chi tài-học, đã sẵn tay kinh-tế; tuy có dài lưng tốn vải, bấy giờ đà đai-vàng áo-gấm chi bảnh-bao.
Tài-năng rất mực, anh-đồ chi duyên-phận, gặp được lúc long-vân; tuy có ăn no lại nằm, bấy giờ đã cơm-chúa võng-đào chi chểnh-chện.
Gương trời vằng-vặc, sáng soi nhà-vàng gác-tía chi linh-lung.
Lộc nước miên-miên, súc tích gấm-cuộn, vàng-cân chi ban-cấp.
Như thế thì: Chồng quan sang, vợ hầu đẹp, ai chẳng khen nhứt-thế chi thần-tiên; danh-phận cả, bổng-lộc nhiều, thế mới thoả tam-sinh chi hương-hỏa. Khởi-vô-sở-thủ ư anh-đồ tai?[1]
Vậy nên: Yếm trắng nước hồ, vã đi vã lại,[2] chỉ mong anh nho-sĩ chi yêu-đương. Miệng ong, lưỡi én, uốn ngược uốn xuôi, cũng mặc giọng thế-gian chị mai-mỉa.
Em nay: Tuổi mới trăng tròn, tiết vừa hoa nở, vâng lời sách hỏi, giãi hết niềm đơn,
CÂU HỎI
Vấn: « Có chồng thương kẻ nằm không một mình, » ngạn hữu thị-ngôn giã.[3]
Nãi:[4]Ả Mận, ả Đào chi đún-đởn, ông rung gối hĩ[5]; bà hà-dĩ-hữu[6] trừng mắt chi nom?
Dì Lan, dì Huệ chi nhởn-nhơ, ông gật đầu hĩ; bà hà-dĩ-hữu ngứa-mồm chi nói? Tắc-sở-vị; (Thương) giả,[7] ư-hà kiến đắc?[8]
- ▲ Há không chuộng được anh đồ về nỗi gì hay sao? Đó là câu nói trả lời lại đầu đề.
- ▲ Ngạn-ngữ: Yếm trắng mà vã nước hồ, vã đi, vã lại anh đồ yêu đương.
- ▲ Là ngạn-ngữ có nhời nói ấy vậy.
- ▲ Nghĩa là hèn, là chữ xuống câu nói bẻ lại, cũng như tiếng thế mà.
- ▲ Là vậy, là chữ đậu cuối câu.
- ▲ Là: sao lại có.
- ▲ Là: thời bảo rằng thương ấy.
- ▲ Là: nào thấy đâu nào?