Phóng thuyền - 放船
của Đỗ Phủ, do Nhượng Tống dịch
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán-Việt Bản dịch của Nhượng Tống

放船
送客蒼溪縣,
山寒雨不開。
直愁騎馬滑,
故作泛舟回。
青惜峰巒過,
黃知橘柚來。
江流大自在,
坐穩興悠哉。

Phóng thuyền
Tống khách Thương Khê huyện,
Sơn hàn vũ bất khai.
Trực sầu kỵ mã hoạt,
Cố tác phiếm chu hồi.
Thanh tích phong loan quá,
Hoàng tri quất dữu lai.
Giang lưu đại tự tại,
Toạ ổn hứng du tai.

Buông thuyền
Đưa khách huyện Thương Khê,
Núi lạnh, mưa mờ mịt.
Cưỡi ngựa sợ khi trơn,
Về thuyền cho đỡ mệt.
Xanh qua tiếc núi rừng,
Vàng tới kìa cam quýt.
Hớn hở được yên thân,
Tự do sông chảy xiết.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì thời hạn bảo hộ bản quyền của nó đã hết ở Việt Nam. Nếu là tác phẩm khuyết danh, nó đã được công bố lần đầu tiên trước năm 1960. Đối với các loại tác phẩm khác, tác giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng) của nó đã mất trước năm 1974. (Theo Điều 27, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009 bắt đầu có hiệu lực từ năm 2010 và điều khoản kéo dài bản quyền đối với tác phẩm khuyết danh từ 50 thành 75 năm nhưng không hồi tố)


Ngoài ra, một tác phẩm của Việt Nam thuộc phạm vi công cộng tại Việt Nam theo quy định này cũng thuộc phạm vi công cộng tại Hoa Kỳ chỉ nếu nó thuộc phạm vi công cộng tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 12 năm 1998, tức là: tác phẩm khuyết danh đã được công bố lần đầu tiên trước năm 1948; đối với các loại tác phẩm khác, tác giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng) của nó đã mất trước năm 1948 tác phẩm chưa bao giờ được xuất bản tại Hoa Kỳ trước ngày 23 tháng 12 năm 1998. (Theo Tuyên cáo 7161 của Tổng thống Bill Clinton áp dụng Đạo luật Thỏa thuận Vòng đàm phán Uruguay (URAA) đối với các tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam)