Kinh Hạ Bì Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng

Kinh Hạ Bì Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng[1] - 經下邳圯橋懷張子房  (1937) 
của Lý Bạch, do Tản Đà dịch

Ngày Nay số 82, 24-10-1937.

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa Bản dịch của

經下邳圯橋懷張子房
子房未虎嘯,
破產不為家。
滄海得壯士,
椎秦博浪沙。
報韓雖不成,
天地皆振動。
潛匿遊下邳,
豈曰非智勇。
我來圯橋上,
懷古欽英風。
惟見碧流水,
曾無黃石公。
歎息此人去,
蕭條徐泗空。

Kinh Hạ Bì Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng
Tử Phòng vị hổ khiếu,
Phá sản bất vi gia.
Thương hải đắc tráng sĩ,
Chùy Tần Bác Lãng sa.
Báo Hàn tuy bất thành.
Thiên địa giai chấn động.
Tiềm nặc du Hạ Bi.
Khởi viết phi trí dũng.
Ngã lai Dĩ kiều thượng,
Hoài cổ khâm anh phong.
Duy kiến bích lưu thủy,
Tằng vô Hoàng Thạch công.
Thán tức thử nhân khứ,
Tiêu điều Từ, Tứ không.

Qua cầu Dĩ ở Hạ Bì nhớ Trương Tử Phòng
Chàng Tử Phòng hồi chưa gặp thời (hổ chưa gầm thét),
Tiêu hết của cải không nghĩ gì đến cửa nhà.
Nơi biển xanh gặp được người tráng sĩ.
Vác chùy đánh Tần Thủy Hoàng ở Bác Lãng sa.
Việc báo thù cho nước Hàn tuy không thành.
Nhưng cả trời đất đều rung động.
Trốn lẩn ở đất Hạ Bì.
Ai bảo là không có trí dũng.
Nay ta đi qua cầu Dĩ,
Nhớ chuyện cũ, kính phục phong cách kẻ anh hùng.
Chỉ thấy dòng nước biếc chảy xuôi,
Chưa từng thấy ông già Hoàng Thạch.
Than tiếc người xưa đã mất đi,
Để cảnh châu Từ, châu Tứ tiêu điều vắng không.

Qua cầu Dĩ đất Hạ Bi nhớ Trương Tử Phòng
Thầy Lương hổ chửa ra oai.
Phá tan của cải gia tài sạch không.
Biển xanh được kẻ anh hùng,
Vua Tần, đánh một dùi đồng thử coi.
Cánh đồng Bác Lãng công toi,
Thù Hàn chưa trả đất trời cũng kinh.
Hạ Bi trốn lánh nương mình,
Khôn ngoan mạnh bạo tài tình lắm thay!
Ta nay cầu Dĩ chơi đây
Nhớ ai thiên cổ lòng đầy kính yêu,
Trong veo nước biếc xuôi chiều,
Mà ông Hoàng Thạch đâu nào có đâu.
Than rằng ai đó đi đâu,
Vắng tanh Từ, Tứ để sầu nước non.

   




Chú thích

  1. Chú của Tản Đà: Ông Trương Lương, tên chữ là Tử Phòng, trước khi chưa giúp Hán Cao Tổ làm nên công to, vì muốn báo thù cho vua Hàn, phí hết của cải để tìm kế thích khách đánh trộm vua Tần Thủy Hoàng trong lúc đi chơi ở cánh đồng Bác Lãng. Việc hành thích ấy không thành công, bèn trốn lánh chơi ở vùng Hạ Bì, gặp ông lão Hoàng Thạch ở trên chỗ cầu Dĩ, dạy sách binh thư, rồi sau nhờ đó làm mưu thần nhà Hán, đánh được nước Tần, trả thù cho nước Hàn. Ông Lý Bạch làm thơ đây tức là hoài cảm vì chỗ Trương Lương gặp Hoàng Thạc công vậy.